Trừ phi có ghi chú thêm, những tần suất phân loại dưới đây được tính từ số biến cố ngoại ý được ghi nhận trong 1 nghiên cứu lớn pha III tiến hành trên 9366 phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư vú có thể phẫu thuật đã dùng thuốc trong 5 năm (nghiên cứu ATAC).
Rất thường gặp (≥ 10%):
Mạch máu: Cơn bốc hỏa, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Toàn thân: Suy nhược, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Rối loạn hệ cơ xương & mô liên kết: Đau khớp/cứng khớp. Viêm khớp.
Hệ thần kinh: Nhức đầu, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ tiêu hóa: Buồn nôn, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Da và mô dưới da: Nổi mẩn, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Thường gặp (≥ 1% - <10%):
Hệ sinh sản và tuyến vú: Khô âm đạo, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Xuất huyết âm đạo, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình*.
Da và mô dưới da: Tóc thưa (rụng tóc), thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Phản ứng dị ứng.
Hệ tiêu hóa: Tiêu chảy, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Nôn mửa, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Hệ thần kinh: Ngủ gà, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình. Hội chứng ống cổ tay**. Rối loạn cảm giác (bao gồm dị cảm, mất vị giác và loạn vị giác).
Các rối loạn gan mật: Tăng alkaline phosphatase, alanine aminotransferase và aspartate aminotransferase.
Chuyển hóa và dinh dưỡng: Biếng ăn, thường ở mức độ nhẹ. Tăng cholesterol huyết, thường ở mức độ nhẹ hoặc trung bình.
Rối loạn hệ cơ xương & mô liên kết: Đau nhức xương, đau cơ.
Ít gặp (≥ 0,1% - < 1%):
Da và mô dưới da: Nổi mề đay.
Chuyển hóa & dinh dưỡng: tăng calci huyết (có hoặc không kèm theo hormon cận giáp).
Rối loạn hệ cơ xương & mô liên kết: Ngón tay cò súng.
Các rối loạn gan mật: Tăng γ-GT và bilirubin. Viêm gan.
Hiếm gặp (≥ 0,01% - < 0,1%):
Da và mô dưới da: Hồng ban đa dạng. Phản ứng dạng phản vệ. Viêm mao mạch da (bao gồm một số báo cáo ban xuất huyết dạng thấp Henoch-Schönlein).
Rất hiếm gặp (< 0,01%):
Da và mô dưới da: Hội chứng Stevens-Johnson. Phù mạch.
* Xuất huyết âm đạo thường được ghi nhận, chủ yếu ở bệnh nhân ung thư vú tiến triển trong vài tuần đầu tiên sau khi chuyển từ liệu pháp nội tiết tố sang điều trị bằng Arimidex. Cần đánh giá thêm nếu hiện tượng xuất huyết vẫn còn.
** Trong các nghiên cứu lâm sàng, hội chứng ống cổ tay đã được báo cáo ở bệnh nhân điều trị với Arimidex nhiều hơn so với những bệnh nhân điều trị với tamoxifen. Tuy nhiên, phần lớn hội chứng này xuất hiện ở bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ rõ rệt để phát triển bệnh.
Vì Arimidex làm giảm nồng độ estrogen trong máu nên có thể gây giảm mật độ khoáng của xương làm cho một số bệnh nhân có nguy cơ cao bị gãy xương (xem
Cảnh báo).