Chất ức chế men ADN Polymerase (acyclovir, ganciclovir)
Acyclovir: nồng độ huyết tương của acyclovir và MPAG (phenolic glucuronide của MPA) khi dùng mycophenolate mofetil cùng với acyclovir cao hơn khi dùng riêng rẽ từng thuốc một. Bởi vì nồng độ MPAG trong huyết tương cũng như nồng độ acyclovir tăng khi có suy thận, có khả năng mycophenolate và acyclovir hoặc dạng tiền chất của nó, valacyclovir, cạnh tranh thải trừ ở ống thận và gây tăng hơn nữa nồng độ cả hai thuốc.
Ganciclovir: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu liều đơn của liều khuyến cáo mycophenolate mofetil đường uống và ganciclovir tiêm tĩnh mạch; và ảnh hưởng đã biết của suy thận đối với dược động học của mycophenolate mofetil (xem mục Các đặc tính dược động học và Cảnh báo và thận trọng) và ganciclovir, khi dùng đồng thời các thuốc này (có sự cạnh tranh về cơ chế bài tiết ở ống thận) sẽ làm tăng nồng độ MPAG và ganciclovir. Không có sự thay đổi đáng kể về dược động học của MPAG và không cần điều chỉnh liều mycophenolate mofetil. Ở những bệnh nhân suy thận dùng đồng thời mycophenolate mofetil và ganciclovir hoặc các tiền chất của nó, valganciclovir, cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận.
Các thuốc kháng acid và các thuốc ức chế bơm proton (PPIs)
Khi uống kèm chất kháng acid như hydroxit magne và hydroxit nhôm, và PPIs, bao gồm lansoprazole và pantoprazole, nồng độ của mycophenolate mofetil bị giảm. Khi so sánh tỷ lệ thải ghép hoặc tỷ lệ mất tạng ghép giữa bệnh nhân CellCept dùng PPIs với bệnh nhân CellCept không dùng PPIs, không quan sát thấy sự khác biệt đáng kể. Những dữ liệu này giúp ngoại suy kết luận này cho tất cả các thuốc kháng axit do sự giảm nồng độ khi dùng đồng thời CellCept với hydroxit magne và hydroxit nhôm thấp hơn đáng kể so với khi dùng Cellcept đồng thời với PPIs.
Chất gắn kết axít mật
Cholestyramine: ở những người khỏe mạnh bình thường đã được dùng 4g cholestyramine ba lần một ngày trong 4 ngày sau đó dùng liều đơn 1,5 g mycophenolate mofetil, diện tích dưới đường cong của MPA giảm 40%. Nên thận trọng khi dùng cùng với các thuốc làm ảnh hưởng vòng tái tuần hoàn gan-ruột (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Sevelamer: Dùng phối hợp sevelamer với CellCept ở người trưởng thành và ở bệnh nhi sẽ làm giảm nồng độ đỉnh Cmax của MPA khoảng 30% và làm giảm giá trị AUC0-12 của MPA khoảng 25% (xem mục Cảnh báo và thận trong, Tương tác).
Các thuốc ức chế miễn dịch
Ciclosporin A: Dược động học của ciclosporin A (CsA) không bị ảnh hưởng bởi mycophenolate mofetil. Tuy nhiên, CsA gây ảnh hưởng vòng tuần hoàn gan ruột của MPA, làm giảm nồng độ MPA từ 30 – 50% ở bệnh nhân ghép thận điều trị bằng Cellcept và CsA khi so sánh với bệnh nhân dùng sirolimus hay belatacept và CellCept với liều tương tự. Ngược lại, những thay đổi về nồng độ của MPA cần được dự kiến khi chuyển bệnh nhân từ CsA sang thuốc ức chế miễn dịch khác không gây ảnh hưởng lên chu trình gan ruột của MPA (xem mục Cảnh báo và thận trọng).
Tacrolimus: Dùng tacrolimus đồng thời với CellCept không làm ảnh hưởng đến diện tích dưới đường cong AUC cũng như nồng độ đỉnh Cmax của MPA ở những bệnh nhân ghép gan. Trong một nghiên cứu gần đây, người ta thấy điều này cũng xảy ra ở những bệnh nhân ghép thận. Ở những bệnh nhân ghép thận, nồng độ tacrolimus dường như không bị thay đổi bởi CellCept. Tuy nhiên ở các bệnh nhân ghép gan, giá trị AUC của tacrolimus tăng khoảng 20% khi dùng nhiểu liều CellCept (1,5g x 2 lần/ngày) cho các bệnh nhân có dùng tacrolimus.
Thuốc kháng sinh
Rifampicin: Sau khi đã chỉnh đúng liều, người ta vẫn thấy nồng độ MPA (AUC0-12) giảm 70% khi dùng đồng thời với rifampicin ở một bệnh nhân ghép tim-phổi. Vì vậy, người ta khuyên nên theo dõi sát nồng độ MPA và cần phải điều chỉnh nồng độ CellCept cho phù hợp để duy trì hiệu quả lâm sàng khi sử dụng đồng thời hai thuốc này với nhau.
Các thuốc kháng sinh tiêu diệt các vi khuẩn sản xuất β-glucuronidase trong ruột (ví dụ như aminoglycoside, cephalosporin, fluoroquinolon, và kháng sinh nhóm penicillin) có thể gây ảnh hưởng lên vòng tái tuần hoàn gan ruột MPAG/MPA vì vậy dẫn đến giảm nồng độ MPA (xem mục Cảnh báo và thận trọng, Tương tác).
Thông tin liên quan đến các kháng sinh như sau:
Ciprofloxacin hay amoxicillin phối hợp với clavulanic acid: Giảm 54% nồng độ MPA (đáy) trước liều đã được ghi nhận ở bệnh nhân ghép thận vào những ngày ngay sau khi bắt đầu uống ciprofloxacin hay amoxicillin phối hợp với clavulanic acid. Ảnh hưởng này có xu hướng giảm dần khi tiếp tục sử dụng kháng sinh và hết hẳn khi ngừng sử dụng kháng sinh. Sự thay đổi nồng độ trước liều này có thể không đại diện một cách chính xác cho nồng độ MPA nói chung, do đó sự liên quan về mặt lâm sàng của sự thay đổi này hiện vẫn chưa rõ.
Norfloxacin và metronidazole: Norfloxacin kết hợp với metronidazole làm giảm AUC0-48 của MPA 30% sau khi uống liều đơn CellCept. Không có tác dụng này đối với nồng độ MPA khi dùng riêng biệt 1 trong hai kháng sinh trên.
Trimethoprim/sulphamethoxazole: Nồng độ MPA (AUC, Cmax) không bị ảnh hưởng khi kết hợp với trimethoprim/sulfamethoxazole.
Thuốc tránh thai đường uống
Một nghiên cứu về việc dùng cùng CellCept (1 g x 2 lần mỗi ngày) với các thuốc tránh thai đường uống có chứa ethinylestradiol (0,02-0,04mg) và levonorgestrel (0,05-0,20mg), desogestrel (0,15mg) hoặc gestodene (0,05 - 0,10mg) được tiến hành ở 18 phụ nữ bị bệnh vẩy nến trong 3 chu kỳ kinh đã cho thấy CellCept không ảnh hưởng trên nồng độ huyết thanh của progesterone, LH và FSH có ý nghĩa lâm sàng, vì thế CellCept không ảnh hưởng đến tác dụng ức chế rụng trứng của các thuốc tránh thai đường uống. Dược động học của thuốc tránh thai đường uống không bị ảnh hưởng ở mức độ lâm sàng khi sử dụng đồng thời với CellCept (Xem mục Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú).
Các tương tác khác
Việc sử dụng đồng thời thuốc ức chế glucoronid hóa MPA có thể làm tăng sự phơi nhiễm với MPA (ví dụ như, tăng MPA AUC0-∞ tới 35% đã được quan sát khi sử dụng đồng thời với isavuconazol). Vì vậy cần thận trọng khi sử dụng đồng thời các thuốc này với CellCept.
Sử dụng đồng thời telmisartan và CellCept làm giảm khoảng 30% nồng độ acid mycophenolic (MPA). Telmisartan làm thay đổi sự đào thải của MPA bằng cách gia tăng sự bộc lộ PPAR gamma (peroxisome proliferator activated receptor gamma), dẫn đến gia tăng sự bộc lộ và hoạt động của UGT1A9, gia tăng sự glucoronid hóa. Khi so sánh tỷ lệ thải ghép, tỷ lệ hỏng tạng ghép hay các biến cố bất lợi giữa bệnh nhân sử dụng CellCept có dùng và không dùng đồng thời với telmisartan, không thấy hậu quả lâm sàng nào của tương tác thuốc-thuốc về mặt dược động học.
Dùng phối hợp probenecid với mycophenolate mofetil ở khỉ làm tăng diện tích dưới đường cong của MPAG 3 lần. Như vậy, các thuốc khác được bài tiết qua ống thận có thể cạnh tranh với MPAG và do đó tăng nồng độ huyết tương của MPAG hoặc các thuốc khác thải qua ống thận.
Vaccine sống: Không nên dùng vaccine sống cho bệnh nhân có suy giảm đáp ứng miễn dịch. Đáp ứng kháng thể với những vaccine khác có thể bị giảm (xem mục Cảnh báo và thận trọng).