Cơ chế tác dụng
Dexlansoprazole thuộc nhóm các hợp chất kháng tiết, dẫn chất benzimidazol, ức chế sự tiết acid dạ dày bằng cách ức chế đặc hiệu (H
+, K
+)-ATPase tại bề mặt tiết của tế bào thành dạ dày. Vì enzym này được xem như bơm acid (bơm proton) bên trong tế bào thành dạ dày, dexlansoprazole đã được mô tả đặc điểm là một chất ức chế bơm proton dạ dày, tại đó nó chặn bước cuối cùng trong sự sản xuất acid.
Dược lực học
Hoạt tính kháng tiết
Tác dụng của DEXILANT 60 mg (n = 20) hoặc lansoprazole 30 mg (n = 23), 1 lần/ngày trong 5 ngày trên pH trong dạ dày 24 giờ đã được đánh giá ở các đối tượng khỏe mạnh trong một nghiên cứu bắt chéo, đa liều. Các kết quả được tóm tắt trong Bảng 1.
- xem Bảng 1.
Tác dụng trên gastrin huyết thanh
Tác dụng của dexlansoprazole trên nồng độ gastrin huyết thanh đã được đánh giá ở khoảng 3.460 bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng lên đến 8 tuần và ở 1.023 bệnh nhân lên đến 6-12 tháng. Nồng độ gastrin trung bình lúc đói tăng so với ban đầu trong khi điều trị bằng DEXILANT 30 và 60 mg. Ở những bệnh nhân được điều trị hơn 6 tháng, nồng độ gastrin huyết thanh trung bình tăng lên trong khoảng 3 tháng đầu điều trị và ổn định trong thời gian điều trị còn lại. Nồng độ gastrin huyết thanh trung bình trở lại mức trước khi điều trị trong vòng 1 tháng sau khi ngừng điều trị.
Gastrin tăng gây tăng sản tế bào giống tế bào ưa crom của ruột (enterochromaffin, ECL) và tăng nồng độ CgA huyết thanh. Nồng độ CgA tăng có thể gây ra kết quả dương tính giả trong xét nghiệm chẩn đoán khối u thần kinh nội tiết (xem
Cảnh báo và thận trọng).
Tác dụng trên tế bào giống tế bào ưa crom của ruột (ECL)
Không có báo cáo về tăng sản tế bào giống tế bào ưa crom của ruột (ECL) trong mẫu sinh thiết dạ dày thu được từ 653 bệnh nhân điều trị bằng DEXILANT 30, 60 hoặc 90 mg cho đến 12 tháng.
Ở chuột cống được cho dùng liều lansoprazole hàng ngày lên đến 150 mg/kg/ngày trong suốt thời gian sống, đã quan sát thấy tăng gastrin máu rõ rệt, tiếp theo là tăng sinh tế bào giống tế bào ưa crom của ruột và hình thành khối u carcinoid, đặc biệt là ở chuột cái (xem
Độc chất học phi lâm sàng).
Điện sinh lý tim
Tại liều cao gấp 5 lần liều khuyến cáo tối đa, dexlansoprazole không kéo dài khoảng QT ở bất kỳ mức độ có ý nghĩa lâm sàng nào.
Dược động học
Công thức phóng thích biến đổi kép của DEXILANT dẫn đến đường biểu diễn nồng độ dexlansoprazole trong huyết tương theo thời gian có hai đỉnh riêng biệt; đỉnh đầu tiên xảy ra 1-2 giờ sau khi dùng thuốc, sau đó là đỉnh thứ hai trong vòng 4-5 giờ (xem Hình 1). Dexlansoprazole được thải trừ với thời gian bán thải khoảng 1-2 giờ ở các đối tượng khỏe mạnh và ở bệnh nhân bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản (GERD) có triệu chứng. Không xảy ra sự tích lũy dexlansoprazole sau khi dùng nhiều liều DEXILANT 30 hoặc 60 mg, 1 lần/ngày mặc dù các giá trị AUC
t (diện tích dưới đường cong) và C
max (nồng độ cao nhất trong huyết tương) của dexlansoprazole hơi cao hơn (dưới 10%) vào ngày thứ 5 so với ngày thứ 1.
- xem Hình 1.

Dược động học của dexlansoprazole rất thay đổi, với phần trăm giá trị hệ số biến thiên (CV%) đối với C
max, AUC và CL/F lớn hơn 30%.
- xem Bảng 2.
Hấp thu
Sau khi dùng DEXILANT 30 hoặc 60 mg đường uống cho các đối tượng khỏe mạnh và bệnh nhân bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản có triệu chứng, các giá trị C
max và AUC trung bình của dexlansoprazole tăng tỷ lệ với liều dùng (xem Hình 1).
Khi các hạt của DEXILANT 60 mg được pha trộn với nước và liều được dùng qua ống thông mũi-dạ dày hoặc uống qua xy lanh, sinh khả dụng (C
max và AUC) của dexlansoprazole tương tự như khi DEXILANT 60 mg được dùng dưới dạng một viên nang nguyên vẹn (xem
Liều lượng và cách dùng).
Ảnh hưởng của thức ăn
Trong các nghiên cứu về ảnh hưởng của thức ăn đối với các đối tượng khỏe mạnh dùng DEXILANT trong các điều kiện ăn uống khác nhau so với lúc đói, tăng C
max trong khoảng từ 12 đến 55%, tăng AUC trong khoảng từ 9 đến 37% và t
max thay đổi (trong khoảng từ mức giảm 0,7 giờ đến mức tăng 3 giờ) (xem
Liều lượng và cách dùng).
Phân bố
Sự gắn kết với protein huyết tương của dexlansoprazole trong khoảng từ 96 đến 99% ở các đối tượng khỏe mạnh và không phụ thuộc vào nồng độ từ 0,01-20 mcg/mL. Thể tích phân bố (Vz/F) sau khi dùng nhiều liều ở những bệnh nhân bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản có triệu chứng là 40 lít.
Thải trừ
Chuyển hóa
Dexlansoprazole được chuyển hóa mạnh ở gan bởi sự oxy hóa, khử và sau đó hình thành các chất liên hợp sulfate, glucuronide và glutathion với các chất chuyển hóa không có hoạt tính. Các chất chuyển hóa oxy hóa được hình thành bởi hệ enzym cytochrome P450 (CYP) bao gồm sự hydroxy hóa chủ yếu bởi CYP2C19 và sự oxy hóa thành sulfone bởi CYP3A4.
CYP2C19 là một enzym gan đa hình cho thấy 3 kiểu hình (phenotype) trong sự chuyển hóa các cơ chất CYP2C19; người chuyển hóa bình thường (*1/*1), người chuyển hóa trung gian (*1/đột biến) và người chuyển hóa kém (đột biến/đột biến). Dexlansoprazole là thành phần lưu hành chủ yếu trong huyết tương bất kể tình trạng người chuyển hóa của CYP2C19. Ở người chuyển hóa trung gian và người chuyển hóa bình thường của CYP2C19, các chất chuyển hóa chính trong huyết tương là 5-hydroxy dexlansoprazole và chất liên hợp glucuronide của nó trong khi ở người chuyển hóa kém của CYP2C19, dexlansoprazole sulfone là chất chuyển hóa chính trong huyết tương.
Bài tiết
Sau khi dùng DEXILANT, không có dexlansoprazole ở dạng không thay đổi được bài tiết trong nước tiểu. Sau khi dùng [
14C] dexlansoprazole cho 6 đối tượng nam giới khỏe mạnh, khoảng 50,7% (độ lệch chuẩn (SD): 9,0%) phóng xạ đã dùng được bài tiết trong nước tiểu và 47,6% (SD: 7,3%) trong phân. Độ thanh thải biểu kiến (CL/F) ở các đối tượng khỏe mạnh là 11,4-11,6 lít/giờ theo thứ tự tương ứng, sau 5 ngày dùng 30 mg hoặc 60 mg, 1 lần/ngày.
Các nhóm bệnh nhân đặc biệt
Tuổi
Nhóm bệnh nhân trẻ em
Dược động học của dexlansoprazole ở bệnh nhân dưới 12 tuổi chưa được nghiên cứu.
Bệnh nhân từ 12-17 tuổi
Dược động học của dexlansoprazole đã được nghiên cứu ở 36 bệnh nhân từ 12-17 tuổi bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản có triệu chứng trong một thử nghiệm đa trung tâm. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên để dùng DEXILANT 30 hoặc 60 mg, 1 lần/ngày trong 7 ngày. C
max và AUC trung bình của dexlansoprazole ở các bệnh nhân từ 12-17 tuổi theo thứ tự là 105 và 88%, so với ở người lớn với liều 30 mg, và theo thứ tự là 81 và 78%, với liều 60 mg (xem Bảng 2 và 3).
- xem Bảng 3.
Nhóm bệnh nhân cao tuổi
Thời gian bán thải pha cuối của dexlansoprazole tăng lên có ý nghĩa ở các đối tượng cao tuổi so với các đối tượng trẻ hơn (theo thứ tự là 2,2 giờ và 1,5 giờ). Dexlansoprazole cho thấy nồng độ toàn thân (AUC) cao hơn ở các đối tượng cao tuổi (cao hơn 34%) so với các đối tượng trẻ hơn (xem
Cảnh báo và thận trọng - Sử dụng ở các nhóm bệnh nhân đặc biệt).
Giới tính
Trong một nghiên cứu ở 12 đối tượng nam và 12 đối tượng nữ khỏe mạnh uống một liều DEXILANT 60 mg, phụ nữ có nồng độ toàn thân (AUC) cao hơn (cao hơn 43%) so với nam giới. Sự khác biệt về nồng độ giữa nam và nữ không thể hiện một mối quan tâm đáng kể về độ an toàn.
Suy thận
Dexlansoprazole được chuyển hóa mạnh ở gan thành các chất chuyển hóa không có hoạt tính và không có thuốc ban đầu được thu hồi trong nước tiểu sau một liều uống dexlansoprazole. Do đó dược động học của dexlansoprazole không được dự kiến sẽ thay đổi ở bệnh nhân suy thận và không có nghiên cứu nào được tiến hành ở các đối tượng suy thận. Ngoài ra, dược động học của lansoprazole không khác biệt trên lâm sàng ở bệnh nhân suy thận nhẹ, trung bình hoặc nặng so với đối tượng khỏe mạnh có chức năng thận bình thường.
Suy gan
Trong một nghiên cứu ở 12 bệnh nhân suy gan trung bình (Child-Pugh loại B) uống một liều đơn 60 mg DEXILANT, nồng độ toàn thân (AUC) của dexlansoprazole dạng gắn kết và không gắn kết với protein cao hơn khoảng 2 lần so với các đối tượng có chức năng gan bình thường. Sự khác biệt về nồng độ này không phải do sự khác biệt về gắn kết với protein. Không có nghiên cứu được thực hiện ở bệnh nhân suy gan nặng (Child-Pugh loại C) (xem
Liều lượng và cách dùng, Cảnh báo và thận trọng - Sử dụng ở các nhóm bệnh nhân đặc biệt).
Tương tác thuốc-thuốc
Ảnh hưởng của dexlansoprazole đến các thuốc khác
Tương tác với cytochrom P450
Dexlansoprazole được chuyển hóa một phần bởi CYP2C19 và CYP3A4 (xem
Dược lý).
Các nghiên cứu
in vitro cho thấy dexlansoprazole không có khả năng ức chế các isoform CYP 1A1, 1A2, 2A6, 2B6, 2C8, 2C9, 2D6, 2E1 hoặc 3A4. Như vậy, không có tương tác có ý nghĩa lâm sàng nào với các thuốc chuyển hóa bởi các enzym CYP được dự kiến. Hơn nữa, các nghiên cứu
in vivo cho thấy DEXILANT không ảnh hưởng đến dược động học của phenytoin (cơ chất của CYP2C9) hoặc theophyllin (cơ chất của CYP1A2) được dùng đồng thời. Các kiểu gen (genotype) CYP1A2 của các đối tượng trong nghiên cứu về tương tác thuốc-thuốc với theophyllin chưa được xác định. Mặc dù nghiên cứu
in vitro cho thấy DEXILANT có khả năng ức chế CYP2C19
in vivo, một nghiên cứu về tương tác thuốc-thuốc
in vivo chủ yếu ở người chuyển hóa bình thường và người chuyển hóa trung gian của CYP2C19 đã cho thấy DEXILANT không ảnh hưởng đến dược động học của diazepam (cơ chất của CYP2C19).
Clopidogrel
Clopidogrel được chuyển hóa thành chất chuyển hóa có hoạt tính một phần bởi CYP2C19. Một nghiên cứu đã được tiến hành ở các đối tượng khỏe mạnh là những người chuyển hóa bình thường của CYP2C19, dùng clopidogrel 75 mg, 1 lần/ngày đơn độc hoặc đồng thời với DEXILANT 60 mg (n = 40) trong 9 ngày. AUC trung bình của chất chuyển hóa có hoạt tính của clopidogrel giảm khoảng 9% (tỷ lệ AUC trung bình là 91% với khoảng tin cậy 90%: 86 đến 97%) khi DEXILANT được dùng đồng thời so với dùng clopidogrel đơn độc. Các thông số dược động học cũng được đánh giá và cho thấy sự thay đổi về ức chế sự kết tập tiểu cầu (được cảm ứng bởi 5 mcM ADP) có liên quan đến sự thay đổi về nồng độ của chất chuyển hóa có hoạt tính của clopidogrel. Ảnh hưởng của nồng độ đến chất chuyển hóa có hoạt tính của clopidogrel và đến sự ức chế tiểu cầu do clopidogrel được cho là không quan trọng trên lâm sàng.
Ảnh hưởng của các thuốc khác trên dexlansoprazole
Bởi vì dexlansoprazole được chuyển hóa bởi CYP2C19 và CYP3A4, các chất gây cảm ứng và ức chế các enzym này có thể làm thay đổi nồng độ của dexlansoprazole.
Dược di truyền học
Ảnh hưởng của tính đa hình của CYP2C19 đến nồng độ toàn thân của dexlansoprazole
Nồng độ toàn thân của dexlansoprazole thường cao hơn ở người chuyển hóa trung gian và người chuyển hóa kém. Ở các đối tượng nam giới người Nhật đã nhận được một liều đơn DEXILANT 30 hoặc 60 mg (N = 2 đến 6 đối tượng/nhóm), các giá trị C
max và AUC trung bình của dexlansoprazole cao hơn gấp 2 lần ở người chuyển hóa trung gian so với người chuyển hóa bình thường; ở người chuyển hóa kém, C
max trung bình cao hơn đến 4 lần và AUC trung bình cao hơn đến 12 lần so với người chuyển hóa bình thường. Mặc dù nghiên cứu này không được tiến hành ở người da trắng và người Mỹ gốc Phi, dự kiến nồng độ dexlansoprazole trong các chủng tộc này cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi kiểu hình CYP2C19.
ĐỘC CHẤT HỌC PHI LÂM SÀNG
Khả năng gây ung thư, gây đột biến, suy giảm khả năng sinh sản
Khả năng gây ung thư của dexlansoprazole đã được đánh giá bằng cách sử dụng các nghiên cứu về lansoprazole. Trong 2 nghiên cứu 24 tháng về khả năng gây ung thư, chuột Sprague-Dawley đã được điều trị bằng đường uống với lansoprazole với liều từ 5-150 mg/kg/ngày, gấp khoảng một đến 40 lần nồng độ trên cơ sở diện tích bề mặt cơ thể (50 mg/m
2) của một người cao trung bình [1,46 m
2 diện tích bề mặt cơ thể (BSA)] dùng liều lansoprazole khuyến cáo cho người 30 mg/ngày.
Lansoprazole gây ra sự tăng sản tế bào giống tế bào ưa chrom của ruột (ECL) ở dạ dày liên quan đến liều dùng và carcinoid tế bào ECL ở cả chuột đực và chuột cái (xem
Dược lý).
Ở chuột cống, lansoprazole cũng làm tăng tỷ lệ chuyển sản ruột của biểu mô dạ dày ở cả hai giống. Ở chuột cống đực, lansoprazole đã làm tăng u tuyến tế bào kẽ tinh hoàn liên quan đến liều dùng. Tỷ lệ những u tuyến này ở chuột cống dùng liều từ 15-150 mg/kg/ngày (gấp bốn đến 40 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể) vượt quá tỷ lệ nền thấp (khoảng = 1,4-10%) đối với chủng chuột cống này.
Trong một nghiên cứu 24 tháng về khả năng gây ung thư, chuột nhắt CD-1 được điều trị bằng đường uống với liều lansoprazole từ 15-600 mg/kg/ngày, gấp hai đến 80 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể. Lansoprazole gây ra sự tăng sản tế bào giống tế bào ưa crom của ruột (ECL) ở dạ dày. Nó cũng tạo ra một tỷ lệ tăng khối u gan (u tuyến tế bào gan cộng với ung thư biểu mô tế bào gan). Tỷ lệ khối u ở chuột nhắt đực được điều trị bằng lansoprazole 300 và 600 mg/kg/ngày (gấp 40-80 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể) và chuột nhắt cái được điều trị bằng lansoprazole 150-600 mg/kg/ngày (gấp 20-80 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể) vượt quá phạm vi tỷ lệ nền ở các nhóm đối chứng lịch sử đối với chủng chuột nhắt này. Điều trị bằng lansoprazole đã tạo ra u tuyến của lưới tinh hoàn ở chuột nhắt đực dùng liều 75-600 mg/kg/ngày (gấp 10-80 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể).
Một nghiên cứu 26 tuần về khả năng gây ung thư của chuột nhắt biến đổi gen p53 (+/-) về lansoprazole đã không cho kết quả dương tính.
Lansoprazole đã có kết quả dương tính trong thử nghiệm Ames và thử nghiệm sai lạc nhiễm sắc thể của tế bào lympho người
in vitro. Lansoprazole không gây độc gen trong thử nghiệm tổng hợp DNA không có kế hoạch (UDS) của tế bào gan chuột cống
ex vivo, thử nghiệm nhân nhỏ ở chuột nhắt
in vivo hoặc thử nghiệm sai lệch nhiễm sắc thể của tế bào tủy xương ở chuột cống.
Dexlansoprazole đã có kết quả dương tính trong thử nghiệm Ames và trong thử nghiệm sai lệch nhiễm sắc thể
in vitro bằng cách sử dụng tế bào phổi của chuột hamster Trung quốc. Dexlansoprazole có kết quả âm tính trong thử nghiệm nhân nhỏ ở chuột nhắt
in vivo.
Ảnh hưởng tiềm tàng của dexlansoprazole đến khả năng sinh sản và hiệu suất sinh sản đã được đánh giá bằng cách sử dụng các nghiên cứu về lansoprazole. Lansoprazole ở liều uống lên đến 150 mg/kg/ngày (gấp 40 lần liều lansoprazole khuyến cáo cho người dựa trên diện tích bề mặt cơ thể) đã được tìm thấy không có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và hiệu suất sinh sản của chuột cống đực và cái.
CÁC NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Chữa lành viêm thực quản ăn mòn ở người lớn
Hai nghiên cứu 8 tuần, đa trung tâm, mù đôi, đối chứng với hoạt chất, ngẫu nhiên, đã được tiến hành ở những bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn (EE) được xác định bằng nội soi. Mức độ nặng của bệnh được phân loại dựa trên hệ thống phân độ theo phân loại Los Angeles (Độ A-D). Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào một trong ba nhóm điều trị sau: DEXILANT 60 mg/hàng ngày, DEXILANT 90 mg/hàng ngày hoặc lansoprazole 30 mg/ngày.
Những bệnh nhân có
H. pylori dương tính hoặc những người có thực quản Barrett và/hoặc những thay đổi loạn sản xác định lúc ban đầu được loại trừ khỏi các nghiên cứu này. Tổng cộng có 4.092 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu và trong độ tuổi từ 18-90 tuổi (trung vị là 48 tuổi) với 54% là nam giới. Chủng tộc được phân bố như sau: 87% là người da trắng, 5% là người da đen và 8% thuộc các chủng tộc khác. Dựa trên phân loại Los Angeles, 71% bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn nhẹ (độ A và B) và 29% bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn trung bình đến nặng (độ C và D) trước khi điều trị.
Các nghiên cứu được thiết kế để kiểm tra về sự không thua kém. Nếu sự không thua kém đã được chứng minh, lúc đó sẽ kiểm tra về sự tốt hơn. Mặc dù sự không thua kém đã được chứng minh trong cả hai nghiên cứu, kết quả về sự tốt hơn trong một nghiên cứu đã không lặp lại ở nghiên cứu kia.
Tỷ lệ bệnh nhân có viêm thực quản ăn mòn đã được chữa lành ở tuần thứ 4 hoặc tuần thứ 8 được trình bày dưới đây trong Bảng 4.
- xem Bảng 4.

Dùng DEXILANT 90 mg hàng ngày đã được nghiên cứu và không đem lại lợi ích lâm sàng thêm hơn DEXILANT 60 mg hàng ngày.
Duy trì sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn và giảm ợ nóng ở người lớn
Một nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, đối chứng với giả dược, ngẫu nhiên đã được tiến hành ở những bệnh nhân đã hoàn thành thành công một nghiên cứu về viêm thực quản ăn mòn và cho thấy viêm thực quản ăn mòn đã được chữa lành, được xác nhận bằng nội soi. Việc duy trì sự chữa lành và thuyên giảm triệu chứng trong thời gian 6 tháng được đánh giá với DEXILANT 30 hoặc 60 mg, 1 lần/ngày so với giả dược. Tổng cộng có 445 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu và trong độ tuổi từ 18-85 tuổi (trung vị là 49 tuổi), với 52% là nữ giới. Chủng tộc được phân bố như sau: 90% là người da trắng, 5% là người da đen và 5% thuộc các chủng tộc khác.
66% bệnh nhân được điều trị bằng DEXILANT 30 mg vẫn còn lành trong thời gian 6 tháng như được xác nhận bằng nội soi (xem Bảng 5).
- xem Bảng 5.

Dùng DEXILANT 60 mg hàng ngày đã được nghiên cứu và không đem lại lợi ích lâm sàng thêm hơn viên nang DEXILANT 30 mg/ngày.
Ảnh hưởng của DEXILANT 30 mg đến việc duy trì giảm ợ nóng cũng đã được đánh giá. Khi được đưa vào nghiên cứu duy trì, đa số mức độ nặng về ợ nóng ban đầu của bệnh nhân được đánh giá là không có. DEXILANT 30 mg đã cho thấy một tỷ lệ phần trăm cao hơn có ý nghĩa thống kê về thời gian 24 giờ không ợ nóng so với giả dược trong thời gian điều trị trong 6 tháng (xem Bảng 6). Đa số bệnh nhân được điều trị bằng giả dược ngừng điều trị do tái phát viêm thực quản ăn mòn từ Tháng thứ 2 đến Tháng thứ 6.
- xem Bảng 6.
Điều trị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản không ăn mòn có triệu chứng ở người lớn
Một nghiên cứu 4 tuần, đa trung tâm, mù đôi, đối chứng với giả dược, ngẫu nhiên đã được tiến hành ở những bệnh nhân có chẩn đoán bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản không ăn mòn có triệu chứng, chủ yếu được thực hiện do biểu hiện của các triệu chứng. Những bệnh nhân này được xác định ợ nóng là triệu chứng chính của họ, có tiền sử ợ nóng trong 6 tháng hoặc lâu hơn, có ợ nóng ít nhất 4 ngày trong 7 ngày ngay trước khi chọn ngẫu nhiên và không có ăn mòn thực quản như được xác định bằng nội soi. Tuy nhiên, những bệnh nhân có các triệu chứng không liên quan đến acid có thể không bị loại trừ, sử dụng những tiêu chuẩn thu nhận này. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào một trong các nhóm điều trị sau: DEXILANT 30 mg/ngày, 60 mg/ngày hoặc giả dược. Tổng cộng có 947 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu và trong độ tuổi từ 18-86 tuổi (trung vị là 48 tuổi) với 71% là nữ giới. Chủng tộc được phân bố như sau: 82% là người da trắng, 14% là người da đen và 4% thuộc các chủng tộc khác.
DEXILANT 30 mg đem lại một tỷ lệ phần trăm số ngày cao hơn có ý nghĩa thống kê về thời gian 24 giờ không có ợ nóng so với giả dược theo đánh giá của nhật ký hàng ngày sau 4 tuần (xem Bảng 7). DEXILANT 60 mg đã được nghiên cứu và không đem lại lợi ích lâm sàng thêm hơn DEXILANT 30 mg.
- xem Bảng 7.

Một tỷ lệ phần trăm cao hơn về số bệnh nhân dùng DEXILANT 30 mg có thời gian 24 giờ không ợ nóng so với giả dược xảy ra sớm vào 3 ngày đầu điều trị và điều này đã được duy trì trong suốt thời gian điều trị (tỷ lệ phần trăm bệnh nhân vào ngày thứ 3: DEXILANT 38% so với giả dược 15%; vào ngày thứ 28: DEXILANT 63% so với giả dược 40%).
Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản ở trẻ em
Việc sử dụng DEXILANT ở bệnh nhân từ 12-17 tuổi được hỗ trợ bởi bằng chứng từ các nghiên cứu đầy đủ và được kiểm soát tốt về viên nang DEXILANT ở người lớn với dữ liệu về độ an toàn, hiệu quả và dược động học bổ sung ở bệnh nhân trẻ em.
Chữa lành viêm thực quản ăn mòn (EE), duy trì sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn và giảm ợ nóng
Trong một thử nghiệm 36 tuần, đa trung tâm, 62 bệnh nhân từ 12-17 tuổi có tiền sử bệnh trào ngược dạ dày-thực quản đã được ghi nhận trong ít nhất 3 tháng và viêm thực quản ăn mòn đã được chứng minh bằng nội soi đã được đưa vào nghiên cứu để đánh giá sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn, duy trì sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn và giảm ợ nóng, sau đó là 12 tuần tiếp theo không điều trị. Tuổi trung vị là 15 tuổi, với nam giới chiếm 61% số bệnh nhân. Dựa trên thang điểm phân độ theo phân loại Los Angeles, 97% bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn nhẹ (độ A và B) và 3% bệnh nhân bị viêm thực quản ăn mòn trung bình đến nặng (độ C và D) trước khi điều trị.
Trong tám tuần đầu tiên, 62 bệnh nhân được điều trị bằng DEXILANT 60 mg, 1 lần/ngày để đánh giá sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn. Trong số 62 bệnh nhân, 58 bệnh nhân đã hoàn thành thử nghiệm tám tuần và 51 bệnh nhân (88%) đã đạt được sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn như được xác nhận bằng nội soi, sau tám tuần điều trị (xem Bảng 8).
- xem Bảng 8.

Sau 8 tuần điều trị đầu tiên, tất cả 51 bệnh nhân có viêm thực quản ăn mòn được chữa lành được chọn ngẫu nhiên để dùng DEXILANT 30 mg hoặc giả dược, 1 lần/ngày thêm 16 tuần để đánh giá việc duy trì sự chữa lành và hồi phục triệu chứng. Việc duy trì sự chữa lành được đánh giá bằng nội soi ở tuần thứ 24. Trong số 51 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên, 13 bệnh nhân đã ngừng điều trị sớm. Trong số này, 5 bệnh nhân đã không được nội soi sau lúc ban đầu. 18/22 bệnh nhân (82%) điều trị bằng DEXILANT 30 mg có thể đánh giá đã duy trì sự chữa lành trong suốt thời gian điều trị 16 tuần như đã được xác nhận bằng nội soi, so với 14 trong số 24 bệnh nhân (58%) ở nhóm dùng giả dược (xem Bảng 9).
- xem Bảng 9.

Giảm ợ nóng đã được đánh giá ở những bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên trong giai đoạn điều trị duy trì 16 tuần. Tỷ lệ phần trăm trung vị về thời gian 24 giờ không ợ nóng là 87% đối với những bệnh nhân dùng DEXILANT 30 mg so với 68% đối với những bệnh nhân dùng giả dược.
Trong số 32 bệnh nhân đã duy trì sự chữa lành viêm thực quản ăn mòn sau khi kết thúc giai đoạn điều trị duy trì 16 tuần, 27 bệnh nhân (16 người được điều trị bằng DEXILANT và 11 người được điều trị bằng giả dược trong pha mù đôi) được theo dõi thêm 12 tuần không điều trị. 24 trong số 27 bệnh nhân đã hoàn thành giai đoạn theo dõi 12 tuần. Một bệnh nhân cần phải điều trị bằng liệu pháp ức chế acid.
Điều trị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản không ăn mòn có triệu chứng
Trong một thử nghiệm ở một nhóm, nhãn mở, đa trung tâm, 104 bệnh nhân trẻ em từ 12 đến 17 tuổi bị bệnh trào ngược dạ dày-thực quản không ăn mòn có triệu chứng được điều trị bằng DEXILANT 30 mg, 1 lần/ngày trong bốn tuần để đánh giá độ an toàn và hiệu quả. Các bệnh nhân có tiền sử về triệu chứng bệnh trào ngược dạ dày-thực quản đã được ghi nhận ít nhất 3 tháng trước khi sàng lọc, ợ nóng được báo cáo ít nhất ba trong bảy ngày trong khi sàng lọc và không có ăn mòn thực quản như đã được xác định bằng nội soi. Tuổi trung vị là 15 tuổi, trong đó nữ giới chiếm 70% số bệnh nhân.
Trong thời gian điều trị bốn tuần, tỷ lệ phần trăm trung vị về thời gian 24 giờ không ợ nóng là 47%.