Điều trị bằng Fostimonkit chỉ nên được chỉ định bởi những
bác sĩ chuyên khoa điều trị vô sinh.
Đáp ứng của buồng trứng với các gonadotrophin ngoại sinh
thay đổi khác nhau ở từng cá nhân. Do đó không thể chỉ định một phác đồ liều lượng
đồng nhất. Vì vậy, liều cần được điều chỉnh theo từng người tùy thuộc vào đáp ứng
của buồng trứng. Việc điều chỉnh liều cần dựa trên kết quả siêu âm và cũng có
thể bao gồm sự theo dõi nồng độ oestradiol.
Liều lượng:
- Không rụng trứng (bao gồm cả hội chứng buồng trứng đa
nang-PCOS)
Điều trị bằng Fostimonkit nhằm tạo sự phát triển một
nang noãn trưởng thành duy nhất (nang de Graaf), sau đó gây rụng trứng bằng
cách tiêm hCG.
Fostimonkit có thể được tiêm mỗi ngày. Ở bệnh nhân
đang có kinh nguyệt, nên bắt đầu điều trị trong 7 ngày đầu tiên của chu kỳ
kinh.
Liều thông thường khởi đầu từ 75 đến 150IU FSH mỗi
ngày và nếu cần, tăng thêm từng 37,5IU (cho đến 75IU), khoảng cách giữa 2 lần
cách nhau 7 đến 14 ngày để đạt được một đáp ứng vừa đủ nhưng không quá mức.
Điều trị nên được điều chỉnh theo đáp ứng của từng bệnh
nhân, được xác định bằng đo kích thước nang trứng bằng siêu âm và/hoặc nồng độ
oestrogen.
Duy trì liều này mỗi ngày cho đến khi đạt được những
điều kiện tiền rụng trứng. Thông thường, đợt điều trị từ 7 đến 14 ngày là đủ để
đạt được tình trạng này.
Tiếp theo, ngưng dùng Fostimonkit và dùng hCG để gây rụng
trứng.
Nếu số lượng nang đáp ứng quá nhiều hay nồng độ
oestradiol tăng quá nhanh, nghĩa là nhiều hơn gấp đôi nồng độ oestradiol hàng
ngày trong 2 hay 3 ngày liên tiếp, nên giảm liều hàng ngày. Vì những nang trên
14mm có thể gây thụ thai, nhiều nang quá 14mm gây nguy cơ đa thai. Trong trường
hợp này, không nên dùng hCG và nên tránh thụ thai để ngăn ngừa đa thai. Bệnh
nhân nên sử dụng phương pháp ngừa thai
hoặc không giao hợp cho đến khi có kinh. Liều điều trị cho chu kỳ kế tiếp nên
thấp hơn chu kỳ trước.
Thông thường, liều tối đa FSH không nên quá 225IU mỗi
ngày.
Nếu bệnh nhân
không đạt được đáp ứng thích đáng sau 4 tuần điều trị, bỏ chu kỳ điều trị đó và
nên điều trị lại với liều khởi đầu cao hơn so chu kỳ điều trị trước đó.
Nếu đạt được đáp ứng tối ưu, nên tiêm một liều đơn hCG
từ 5.000IU đến 10.000IU trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi tiêm mũi Fostimonkit
cuối cùng.
Khuyên bệnh nhân giao hợp vào ngày tiêm hCG và ngày kế
tiếp hoặc thực hiện cấy tinh trùng vào tử cung.
- Kích thích buồng trứng có kiểm soát trong các kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản
Hiện nay quá trình trơ hóa tuyến yên nhằm kiềm chế nồng
độ đỉnh LH nội sinh và kiểm soát nồng độ cơ bản của LH thường đạt được bằng cách
dùng chất chủ vận của hormon giải phóng gonadotrophin.
Theo phác đồ điều trị thông thường, bắt đầu tiêm
Fostimonkit vào khoảng 2 tuần sau khi khởi đầu điều trị bằng chất chủ vận, và
tiếp tục dùng cả 2 thuốc cho đến khi nang trứng phát triển thỏa đáng. Ví dụ,
sau 2 tuần trơ hóa tuyến yên bằng chất chủ vận, tiêm 150 đến 225IU FSH trong 7
ngày đầu. Sau đó điều chỉnh liều tùy theo đáp ứng của buồng trứng bệnh nhân.
Một phác đồ tăng rụng trứng khác, tiêm 150 đến 225IU
FSH mỗi ngày, bắt đầu từ ngày thứ 2 hay thứ 3 của chu kỳ kinh nguyệt. Tiếp tục
dùng thuốc cho đến khi nang trứng phát triển hoàn chỉnh (đánh giá bằng cách
theo dõi nồng độ oestrogen huyết thanh và/hoặc siêu âm) với liều được điều chỉnh
tùy theo đáp ứng của bệnh nhân (thường không quá 450 IU mỗi ngày). Thường vào
ngày thứ 10 của đợt điều trị (từ 5 đến 20 ngày) nang trứng phát triển thỏa
đáng.
Khi đạt được đáp ứng tối ưu, 24 đến 48 giờ sau khi
tiêm mũi Fostimonkit cuối cùng tiêm 1 liều đơn từ 5.000 đến 10.000IU hCG để
gây phóng noãn.
Sự thu hồi noãn bào được thực hiện sau 34-35 giờ.
Cách dùng:
Fostimonkit dùng tiêm dưới da.
Bột thuốc nên được hòa tan với dung môi ngay trước khi
tiêm.
Để tránh đau khi tiêm và để thuốc Fostimonkit ít bị rỉ
ra ngoài nơi tiêm, nên tiêm dưới da chậm.
Nên luân phiên thay đổi nơi tiêm để
phòng ngừa teo mô mỡ. Bỏ phần dung dịch không dùng.
Bệnh nhân có thể tự tiêm dưới da theo hướng dẫn của
bác sĩ và tuyệt đối tuân theo những chỉ dẫn này.
Trước khi tự tiêm Fostimonkit, đọc kỹ hướng dẫn sử dụng.