Chỉ khi được bác sĩ thông tin đầy đủ và hướng dẫn
kỹ cách tiêm, bệnh nhân mới được phép tự tiêm. Trước khi tự tiêm, bệnh nhân cần
phải được hướng dẫn kỹ thuật tiêm dưới da, những vị trí có thể tiêm, cách pha
dung dịch tiêm. Nên theo dõi bệnh nhân trực tiếp ở lần đầu tiên tự tiêm Fostimonkit.
Đặc biệt, với những bệnh nhân có tiền sử
nhạy cảm với các gonadotrophin, có thể xảy ra phản ứng phản vệ. Do vậy, bác sĩ
điều trị nên thực hiện tiêm mũi Fostimonkit đầu tiên đồng thời chuẩn bị sẵn
sàng các phương tiện hồi sức tim-phổi.
Trước khi bắt đầu điều trị, phải khám cả 2
vợ chồng để đảm bảo rằng họ không thuộc nhóm chống chỉ định có thai. Đặc biệt,
phải đánh giá để phát hiện các bệnh thiểu năng tuyến giáp, thiểu năng vỏ thượng
thận, tăng prolactin máu, u tuyến yên hoặc vùng dưới đồi, vì những bệnh này cần
có phương pháp điều trị riêng.
Đa
thai
Ở những bệnh nhân đang áp dụng các kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản, nguy cơ đa thai chủ yếu có liên quan tới số lượng phôi thai được
đặt vào tử cung. Ở bệnh nhân được điều trị kích thích rụng trứng, tỷ lệ đa thai
và sinh nhiều con cao hơn so với người có thai tự nhiên và phần lớn là sinh
đôi. Để giảm nguy cơ đa thai, nên theo dõi chặt chẽ đáp ứng của buồng trứng.
Quá
kích buồng trứng không mong muốn
Nên thực hiện kiểm tra nồng độ oestradiol
và đánh giá sự phát triển của nang trứng bằng siêu âm trước khi điều trị và định
kỳ trong khi điều trị. Không những có nhiều nang trứng phát triển, nồng độ
oestradiol có thể tăng rất nhanh, ví dụ nồng độ tăng gấp đôi trong 2 hay 3 ngày
liên tiếp, và có thể tăng cao quá mức. Chẩn đoán quá kích buồng trứng có thể được
xác định dựa vào kết quả siêu âm. Nếu xảy ra quá kích buồng trứng không mong muốn
(nghĩa là không phải là một phần của kích thích buồng trứng có kiểm soát trong
các chương trình hỗ trợ sinh sản), nên ngưng tiêm Fostimonkit. Trong trường hợp
đó, nên tránh có thai và phải ngưng dùng hCG vì có thể gây hội chứng quá kích
buồng trứng (OHSS) cùng với nguy cơ đa dụng trứng. Những triệu chứng và dấu hiệu
của hội chứng quá kích buồng trứng ở mức độ nhẹ là đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy,
phì đại buồng trứng và u nang buồng trứng từ nhẹ đến trung bình. Hiếm khi xảy
ra hội chứng quá kích buồng trứng nghiêm trọng có thể gây đe dọa tính mạng, được
đặc trưng bởi những u nang lớn trong buồng (có thể vỡ), cổ trướng, thường bị
tràn dịch màng phổi và tăng cân. Hiếm khi xảy ra huyết khối tắc mạch ở tĩnh mạch
hay động mạch kết hợp với hội chứng quá kích buồng trứng.
Sẩy
thai
Tỷ lệ sẩy thai tự nhiên ở bệnh nhân điều
trị với FSH cao hơn người bình thường, nhưng tương đương ở những người mắc các bệnh
khác về sinh sản.
Thai
ngoài tử cung
Vì các phụ nữ vô sinh áp dụng hỗ trợ sinh
sản và đặc biệt thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) hay có bất thường ở vòi trứng,
tỷ lệ thai ngoài tử cung có thể cao hơn. Vì vậy, cần kiểm tra bằng siêu âm sớm
để chắc rằng thai nằm trong tử cung.
Khối
u ở cơ quan sinh dục
Đã có những báo cáo về những khối u, lành
tính và ác tính, ở tử cung và ở cơ quan sinh dục khác ở những phụ nữ đang áp dụng
phác đồ điều trị vô sinh. Vẫn chưa chắc
rằng điều trị bằng các gonadotrophin làm tăng nguy cơ bị các khối u này ở phụ nữ
bị vô sinh.
Dị
dạng bẩm sinh
Tỷ lệ mắc bệnh dị dạng bẩm sinh sau khi áp
dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể cao hơn một ít so với thụ thai tự
nhiên. Điều này được cho là do những khác biệt về đặc điểm của bố mẹ (như tuổi
có thai, đặc điểm tinh trùng) và đa thai.
Chứng
huyết khối tắc mạch
Ở những phụ nữ có yếu tố nguy cơ bị chứng
huyết khối tắc mạch, như tiền sử bản thân hay gia đình, béo phì nghiêm trọng
(chỉ số trọng lượng cơ thể > 30 kg/m2) hay chứng tăng đông máu có
thể tăng nguy cơ chứng huyết khối tắc mạch ở tĩnh mạch hay động mạch trong hoặc
sau khi điều trị bằng các gonadotrophin. Ở các phụ nữ này, cần cân nhắc lợi ích
và nguy cơ của việc dùng các gonadotrophin.
Các
bệnh lây nhiễm
Khi dùng các chế phẩm thuốc được tinh chế
từ nước tiểu người, không thể loại trừ hoàn toàn khả năng lây truyền các tác
nhân lây nhiễm, cũng như các loại virus và các mầm bệnh chưa được biết đến.
Tuy nhiên, có thể hạn chế các nguy cơ này
bằng quá trình chiết tách/tinh lọc bao gồm cả các bước loại bỏ/bất hoạt
virus. Hiệu quả của những bước này đã được đánh giá dựa trên các virus điển
hình đặc biệt là HIV, Herpesvirus và
Papillomavirus.
Cho đến nay, những trải nghiệm lâm sàng với
các chế phẩm follitropin không thấy có lây truyền virus do sử dụng các
gonadotrophin chiết xuất từ nước tiểu người.
Tác dụng của thuốc khi lái xe và vận hành máy móc
Thận trọng khi dùng thuốc này vì thuốc gây
đau đầu, chóng mặt.