ĐẶC TÍNH DƯỢC LỰC HỌC
Nhóm dược lý: Các tác nhân chống chảy máu, chất cầm máu hệ thống khác.
Mã ATC: B02BX 05.
Cơ chế tác động
TPO là cytokine chính liên quan đến sự điều hòa việc sản xuất mẫu tiểu cầu (megakaryopoiesis) và sản xuất tiểu cầu, và là phối tử (ligand) nội sinh cho TPO-R. Eltrombopag tương tác với vùng xuyên màng của TPO-R ở người và khởi phát truyền đạt tín hiệu tương tự nhưng không giống hệt với sự truyền đạt tín hiệu của thrombopoietin (TPO) nội sinh, mà điều này kích thích sự tăng sinh và biệt hóa từ các tế bào tiền thân của tủy xương.
ĐẶC TÍNH DƯỢC ĐỘNG HỌC
Dược động học
Dữ liệu nồng độ theo thời gian của eltrombopag trong huyết tương được thu thập ở 88 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch trong các nghiên cứu TRA100773A và TRA100773B được kết hợp với dữ liệu từ 111 đối tượng người lớn khỏe mạnh trong phân tích được động học quần thể. Ước tính AUC
(0-τ) và C
max của eltrombopag trong huyết tương đối với bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch được trình bày (Bảng 1).
- xem Bảng 1.
Hấp thu và sinh khả dụng
Eltrombopag được hấp thu với nồng độ đỉnh đạt được 2 đến 6 giờ sau khi uống. Dùng eltrombopag đồng thời với thuốc kháng acid và các sản phẩm khác có chứa các cation đa hóa trị như sản phẩm từ sữa và sản phẩm bổ sung khoáng chất làm giảm đáng kể nồng độ eltrombopag (xem phần
Liều lượng và cách dùng). Chưa xác lập được sinh khả dụng tuyệt đối của eltrombopag trên người sau khi uống. Dựa trên sự bài tiết qua nước tiểu và các chất chuyển hóa được thải trừ qua phân, ước tính hấp thu đường uống của các chất liên quan đến thuốc sau khi dùng liều đơn 75 mg dung dịch eltrombopag ít nhất là 52%.
Phân bố
Eltrombopag gắn kết cao với protein huyết tương người (> 99,9%), chủ yếu với albumin. Eltrombopag là cơ chất cho BCRP, nhưng không là cơ chất cho P-glycoprotein hay OATP1B1.
Chuyển hóa sinh học
Eltrombopag được chuyển hóa chủ yếu qua sự phân cắt, oxy hóa và liên hợp với acid glucuronic, glutathione, hoặc cysteine. Trong nghiên cứu gắn đồng vị phóng xạ ở người, eltrombopag chiếm khoảng 64% AUC
inf của carbon phóng xạ trong huyết tương. Các chất chuyển hóa chiếm số lượng nhỏ do sự glucuronide hóa và oxy hóa cũng được phát hiện. Các nghiên cứu
in vitro cho thấy CYP1A2 và CYP2C8 chịu trách nhiệm cho sự chuyển hóa oxy hóa của eltrombopag. Uridine diphosphoglucuronyl transferase UGT1A1 và UGT1A3 chịu trách nhiệm cho sự glucuronide hóa và vi khuẩn trong đường tiêu hóa dưới có thể chịu trách nhiệm cho con đường phân cắt.
Thải trừ
Lượng eltrombopag hấp thu được chuyển hóa rộng rãi. Con đường thải trừ chính của eltrombopag là qua phân (59%) và 31% liều dùng được tìm thấy trong nước tiểu dưới dạng chất chuyển hóa. Không phát hiện thấy chất gốc chưa biến đổi (eltrombopag) trong nước tiểu. Eltrombopag dạng không biến đổi bài tiết qua phân chiếm khoảng 20% liều dùng. Thời gian bán thải trong huyết tương của eltrombopag xấp xỉ 21-32 giờ.
Tương tác dược động học
Dựa vào một nghiên cứu trên người với eltrombopag được gắn đồng vị phóng xạ, sự glucuronid hóa đóng vai trò nhỏ trong sự chuyển hóa của eltrombopag. Các nghiên cứu trên microsome của tế bào gan người xác nhận UGT1A1 và UGT1A3 là các enzyme chịu trách nhiệm glucuronid hóa eltrombopag. Eltrombopag là chất ức chế một số enzyme UGT
in vitro. Về mặt lâm sàng, không tiên đoán được trước các tương tác thuốc đáng kể liên quan đến sự glucuronid hóa do sự đóng góp hạn chế của từng enzyme UGT riêng lẻ trong sự glucuronid hóa eltrombopag.
Khoảng 21% liều eltrombopag có thể được chuyển hóa bằng cách oxy hóa. Các nghiên cứu trên microsome tế bào gan người xác định được CYP1A2 và CYP2C8 là các enzyme có vai trò oxy hóa eltrombopag. Eltrombopag không ức chế hoặc gây cảm ứng các enzym CYP dựa trên dữ liệu
in vitro và
in vivo (xem phần
Tương tác).
Các nghiên cứu
in vitro chứng minh rằng eltrombopag là chất ức chế chất vận chuyển OATP1B1 và là chất ức chế chất vận chuyển BCRP và eltrombopag làm tăng nồng độ của rosuvastatin là cơ chất của OATP1B1 và BCRP trong một nghiên cứu tương tác thuốc trên lâm sàng (xem phần
Tương tác). Trong các nghiên cứu lâm sàng với eltrombopag, khuyến cáo nên giảm liều statin 50%.
Eltrombopag làm chelat hóa các cation đa hóa trị như sắt, calci, magnesi, nhôm, selen và kẽm (xem phần
Liều lượng và cách dùng và
Tương tác).
Các nghiên cứu
in vitro đã cho thấy eltrombopag không phải là cơ chất đối với OATP1B1 là polypeptide vận chuyển anion hữu cơ nhưng nó là một chất ức chế chất vận chuyển này (giá trị IC
50 là 2,7 μM (1,2 μg/mL). Các nghiên cứu
in vitro cũng cho thấy eltrombopag là cơ chất và chất ức chế của protein kháng ung thư vú (BCRP) (giá trị IC
50 là 2,7 μM (1,2 μg/mL)).
Các nhóm đối tượng bệnh nhân đặc biệt
Suy thận
Dược động học của eltrombopag đã được nghiên cứu sau khi dùng eltrombopag cho bệnh nhân người lớn bị suy thận. Sau khi dùng liều đơn 50 mg, AUC
0-∞ của eltrombopag thấp hơn 32% đến 36% ở bệnh nhân suy thận nhẹ đến trung bình và thấp hơn 60% ở bệnh nhân suy thận nặng so với những người tình nguyện khỏe mạnh. Có sự biến thiên và trùng lắp đáng kể về nồng độ giữa các bệnh nhân suy thận và người tình nguyện khỏe mạnh. Nồng độ eltrombopag (hoạt chất) không gắn kết đối với thuốc gắn kết protein cao này đã không được đo. Bệnh nhân bị suy chức năng thận nên thận trọng khi sử dụng eltrombopag và theo dõi chặt chẽ, ví dụ bằng cách xét nghiệm creatinin huyết thanh và/hoặc phân tích nước tiểu (xem phần
Liều lượng và cách dùng). Hiệu quả và độ an toàn của eltrombopag chưa được xác định ở những bệnh nhân bị cả suy thận và suy gan từ trung bình đến nặng.
Suy gan
Dược động học của eltrombopag đã được nghiên cứu sau khi dùng eltrombopag cho bệnh nhân người lớn bị suy gan. Sau khi dùng liều đơn 50 mg, AUC
0-∞ của eltrombopag cao hơn 41% ở bệnh nhân suy gan nhẹ và cao hơn 80% đến 93% ở bệnh nhân suy gan từ trung bình đến nặng so với những người tình nguyện khỏe mạnh. Có sự trùng lắp và biến thiên đáng kể về nồng độ giữa các bệnh nhân suy gan và người tình nguyện khỏe mạnh. Nồng độ eltrombopag (hoạt chất) không gắn kết đối với thuốc gắn kết protein cao này đã không được đo.
Ảnh hưởng của suy gan trên dược động học của eltrombopag sau khi dùng lặp lại đã được đánh giá qua phân tích dược động học quần thể ở 28 người lớn khỏe mạnh và 714 bệnh nhân suy gan (673 bệnh nhân nhiễm HCV và 41 bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính do bệnh nguyên khác). Trong số 714 bệnh nhân, 642 bệnh nhân suy gan nhẹ, 67 bệnh nhân suy gan trung bình và 2 bệnh nhân suy gan nặng. So với những người tình nguyện khỏe mạnh, bệnh nhân suy gan nhẹ có giá trị AUC
(0-τ) của eltrombopag trong huyết tương cao hơn khoảng 111% (khoảng tin cậy 95%: 45% đến 283%) và bệnh nhân suy gan trung bình có giá trị AUC
(0-τ) của eltrombopag trong huyết tương cao hơn khoảng 183% (khoảng tin cậy 95%: 90% đến 459%).
Do đó, không nên sử dụng eltrombopag ở bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch có suy gan (điểm số Child-Pugh ≥ 5) trừ khi lợi ích dự kiến lớn hơn nguy cơ đã được xác định về huyết khối tĩnh mạch cửa (xem phần
Liều lượng và cách dùng và
Cảnh báo và thận trọng). Đối với bệnh nhân nhiễm HCV khởi đầu dùng eltrombopag với liều 25 mg, 1 lần/ngày (xem phần
Liều lượng và cách dùng).
Chủng tộc
Ảnh hưởng của chủng tộc Châu Á (như người Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Hàn quốc) đối với dược động học của eltrombopag đã được đánh giá bằng cách sử dụng phân tích dược động học quần thể trên 111 người lớn khỏe mạnh (31 bệnh nhân Châu Á) và 88 bệnh nhân ITP (18 bệnh nhân Châu Á). Dựa trên ước tính từ phân tích dược động học quần thể, những bệnh nhân ITP người Châu Á có giá trị AUC
(0-τ) eltrombopag huyết tương cao hơn khoảng 49% so với bệnh nhân không phải người Châu Á, chủ yếu là người da trắng (xem phần
Liều lượng và cách dùng).
Giới tính
Ảnh hưởng của giới tính đối với dược động học của eltrombopag đã được đánh giá bằng cách sử dụng phân tích dược động học quần thể trên 111 người lớn khỏe mạnh (14 nữ) và 88 bệnh nhân ITP (57 nữ). Dựa trên ước tính từ phân tích dược động học quần thể, bệnh nhân ITP nữ có AUC
(0-τ) eltrombopag huyết tương cao hơn khoảng 23% so với bệnh nhân ITP nam, khi chưa có hiệu chỉnh theo cho khác biệt trọng lượng cơ thể.
Dân số trẻ em (từ 1 đến 17 tuổi)
Dược động học của eltrombopag được đánh giá trên 168 bệnh nhân trẻ em bị ITP dùng 1 lần/ngày trong 2 nghiên cứu, TRA108062/PETIT và TRA115450/PETIT-2. Độ thanh thải biểu kiến của eltrombopag trong huyết tương sau khi uống (CL/F) tăng lên theo trọng lượng cơ thể. Ảnh hưởng của chủng tộc và giới tính đến ước tính CL/F của eltrombopag trong huyết tương là đồng nhất giữa bệnh nhân trẻ em và người lớn. Bệnh nhân trẻ em người châu Á bị giảm tiểu cầu miễn dịch có giá trị AUC
(0-τ) của eltrombopag trong huyết tương cao hơn khoảng 43% so với bệnh nhân không phải người châu Á. Bệnh nhân trẻ em nữ bị giảm tiểu cầu miễn dịch có giá trị AUC
(0-τ) của eltrombopag trong huyết tương cao hơn khoảng 25% so với bệnh nhân nam.
Các thông số dược động học của eltrombopag trên các bệnh nhân nhi bị ITP được thể hiện trong bảng 2.
- xem Bảng 2.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
Các nghiên cứu về giảm tiểu cầu miễn dịch (nguyên phát)
Hai nghiên cứu pha III, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với giả dược RAISE (TRA102537) và TRA100773B và 2 nghiên cứu nhãn mở REPEAT (TRA108057) và EXTEND (TRA105325) đã đánh giá độ an toàn và hiệu quả của eltrombopag ở bệnh nhân người lớn bị giảm tiểu cầu miễn dịch được điều trị trước đây. Nhìn chung, eltrombopag được dùng cho 277 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch trong ít nhất 6 tháng và 202 bệnh nhân trong ít nhất 1 năm.
Các nghiên cứu mù đôi đối chứng với giả dược
RAISE: 197 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch đã được chọn ngẫu nhiên 2:1 vào nhóm dùng eltrombopag (n=135) hoặc giả dược (n = 62), việc chọn ngẫu nhiên được phân tầng dựa trên tình trạng cắt lách, sử dụng các thuốc điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch lúc ban đầu và số lượng tiểu cầu ban đầu. Liều eltrombopag được điều chỉnh trong thời gian điều trị 6 tháng dựa trên số lượng tiểu cầu của từng bệnh nhân. Tất cả các bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng eltrombopag 50 mg. Từ ngày thứ 29 đến khi kết thúc điều trị, 15 đến 28% bệnh nhân điều trị bằng eltrombopag được duy trì ≤ 25 mg và 29 đến 53% bệnh nhân được điều trị 75 mg.
Ngoài ra, các bệnh nhân có thể giảm liều các thuốc điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch dùng đồng thời và được điều trị cứu nguy theo quy định của điều trị chuẩn của địa phương. Hơn một nửa số bệnh nhân trong mỗi nhóm điều trị đã có ≥ 3 liệu pháp giảm tiểu cầu miễn dịch trước đó và 36% đã có phẫu thuật cắt lách trước đó.
Số lượng tiểu cầu trung vị lúc ban đầu là 16.000/μL đối với cả hai nhóm điều trị và ở nhóm eltrombopag số lượng tiểu cầu được duy trì trên 50.000/µL ở tất cả các lần thăm khám trong khi điều trị bắt đầu từ ngày thứ 15; ngược lại, số lượng tiểu cầu trung vị ở nhóm dùng giả dược vẫn < 30.000/µL trong suốt nghiên cứu.
Đáp ứng về số lượng tiểu cầu từ 50.000 400.000/μL trong trường hợp không điều trị cứu nguy đã đạt được bởi nhiều bệnh nhân hơn đáng kể ở nhóm điều trị bằng eltrombopag trong thời gian điều trị 6 tháng, p < 0,001. 54% bệnh nhân điều trị bằng eltrombopag và 13% bệnh nhân điều trị bằng giả dược đã đạt được mức đáp ứng này sau 6 tuần điều trị. Đáp ứng về tiểu cầu tương tự đã được duy trì trong suốt nghiên cứu, với 52% và 16% bệnh nhân đáp ứng vào cuối thời gian điều trị 6 tháng.
- xem Bảng 3.
Lúc ban đầu, hơn 70% bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch ở mỗi nhóm điều trị báo cáo bất kỳ chảy máu nào (độ 1-4 theo WHO) và hơn 20% báo cáo chảy máu có ý nghĩa lâm sàng (độ 2-4 theo WHO), tương ứng. Tỷ lệ bệnh nhân điều trị bằng eltrombopag bị bất kỳ chảy máu nào (độ 1 4) và chảy máu có ý nghĩa lâm sàng (độ 2 4) đã giảm khoảng 50% so với ban đầu từ ngày thứ 15 đến khi kết thúc điều trị trong suốt thời gian điều trị 6 tháng.
TRA100773B: Tiêu chí chính đánh giá hiệu quả là tỷ lệ người đáp ứng, định nghĩa là những bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch có tăng số lượng tiểu cầu ≥ 50.000/μL vào ngày thứ 43 từ mức ban đầu < 30.000/μL; những bệnh nhân rút khỏi nghiên cứu sớm do số lượng tiểu cầu > 200.000/μL được xem là người đáp ứng, những bệnh nhân ngừng điều trị vì bất kỳ lý do nào khác được xem là người không đáp ứng bất kể số lượng tiểu cầu. Tổng cộng có 114 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch được điều trị trước đó được chọn ngẫu nhiên 2:1 vào nhóm dùng eltrombopag (n=76) hoặc giả dược (n=38).
- xem Bảng 4.
Trong cả hai nghiên cứu RAISE và TRA100773B, đáp ứng với eltrombopag so với giả dược là tương tự nhau bất kể việc sử dụng thuốc điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch, tình trạng cắt lách và số lượng tiểu cầu ban đầu (≤ 15.000/µL, > 15.000/µL) lúc chọn ngẫu nhiên.
Trong các nghiên cứu RAISE và TRA100773B, ở phân nhóm bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch có số lượng tiểu cầu ban đầu ≤ 15.000/μL, số lượng tiểu cầu trung vị đã không đạt được mức mục tiêu (> 50.000/μL), mặc dù trong cả hai nghiên cứu, 43% số bệnh nhân này được điều trị bằng eltrombopag đã đáp ứng sau 6 tuần điều trị. Ngoài ra, trong nghiên cứu RAISE, 42% bệnh nhân có số lượng tiểu cầu ban đầu ≤ 15.000/μL được điều trị bằng eltrombopag đã đáp ứng vào cuối thời gian điều trị 6 tháng. 42% đến 60% bệnh nhân điều trị bằng eltrombopag trong nghiên cứu RAISE đã được điều trị 75 mg từ ngày thứ 29 đến khi kết thúc điều trị.
Một nghiên cứu nhãn mở, liều lặp lại (3 chu kỳ trong 6 tuần điều trị, tiếp theo là 4 tuần không điều trị) cho thấy sử dụng theo từng đoạn với nhiều liệu trình eltrombopag đã chứng minh không mất đáp ứng.
Eltrombopag đã được dùng cho 302 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch trong nghiên cứu mở rộng nhãn mở EXTEND (TRA105325), 218 bệnh nhân hoàn thành 1 năm, 180 bệnh nhân hoàn thành 2 năm, 107 bệnh nhân hoàn thành 3 năm, 75 bệnh nhân hoàn thành 4 năm, 34 bệnh nhân hoàn thành 5 năm và 18 bệnh nhân hoàn thành 6 năm. Số lượng tiểu cầu ban đầu trung vị là 19.000/μL trước khi dùng eltrombopag. Số lượng tiểu cầu trung vị lúc 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 năm nghiên cứu theo thứ tự là 85.000/μL, 85.000/μL, 105.000/μL, 64.000/μL, 75.000/μL, 119.000/μL và 76.000/μL.
Các nghiên cứu lâm sàng so sánh eltrombopag với các lựa chọn điều trị khác (ví dụ cắt lách) chưa được thực hiện. Nên xem xét độ an toàn lâu dài của eltrombopag trước khi bắt đầu trị liệu.
Nhóm bệnh nhân trẻ em (từ 1 đến 17 tuổi)
Độ an toàn và hiệu quả của eltrombopag ở bệnh nhân trẻ em đã được khảo sát trong 2 nghiên cứu.
TRA115450 (PETIT2): Tiêu chí đánh giá chính là đáp ứng kéo dài, được định nghĩa là tỷ lệ bệnh nhân dùng eltrombopag, so với giả dược, đạt được số lượng tiểu cầu ≥ 50.000/µL trong ít nhất 6 trong số 8 tuần (trong trường hợp không điều trị cứu nguy), từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 12 trong giai đoạn chọn ngẫu nhiên, mù đôi. Các bệnh nhân được chẩn đoán bị giảm tiểu cầu miễn dịch mạn tính trong ít nhất 1 năm và kháng trị hoặc tái phát với ít nhất 1 điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch trước đó hoặc không thể tiếp tục các điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch khác vì lý do y tế và có số lượng tiểu cầu < 30.000/µL. 92 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên theo 3 phân tầng đoàn hệ theo tuổi (2:1) vào nhóm dùng eltrombopag (n = 63) hoặc giả dược (n = 29). Có thể điều chỉnh liều eltrombopag dựa trên số lượng tiểu cầu.
Nhìn chung, tỷ lệ bệnh nhân dùng eltrombopag lớn hơn có ý nghĩa (40%) so với tỷ lệ bệnh nhân dùng giả dược (3%) đạt được tiêu chí đánh giá chính (Tỷ số chênh: 18,0 [khoảng tin cậy 95%: 2,3, 140,9] p < 0,001) tương tự nhau trong 3 đoàn hệ theo tuổi (Bảng 5).
- xem Bảng 5.
Số bệnh nhân dùng eltrombopag cần điều trị cứu nguy trong giai đoạn chọn ngẫu nhiên ít hơn về mặt thống kê so với số bệnh nhân dùng giả dược (19% [12/63] so với 24% [7/29], p = 0,032).
Lúc ban đầu, 71% bệnh nhân ở nhóm dùng eltrombopag và 69% ở nhóm dùng giả dược báo cáo bất kỳ chảy máu nào (độ 1-4 theo WHO). Ở tuần thứ 12, tỷ lệ bệnh nhân dùng eltrombopag báo cáo bất kỳ chảy máu nào đã giảm xuống một nửa so với ban đầu (36%). So sánh ở tuần thứ 12, 55% bệnh nhân dùng giả dược báo cáo bất kỳ chảy máu nào.
Các bệnh nhân chỉ được phép giảm hoặc ngừng điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch ban đầu trong giai đoạn nhãn mở của nghiên cứu và 53% bệnh nhân (8/15) có thể giảm (n = 1) hoặc ngừng (n = 7) điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch ban đầu, chủ yếu là corticosteroid, không cần liệu pháp cứu nguy.
TRA108062 (PETIT): Tiêu chí đánh giá chính là tỷ lệ bệnh nhân đạt được số lượng tiểu cầu ≥ 50.000/µL ít nhất 1 lần trong khoảng từ tuần thứ 1 và tuần thứ 6 của giai đoạn chọn ngẫu nhiên. Các bệnh nhân đã được chẩn đoán bị giảm tiểu cầu miễn dịch trong ít nhất 6 tháng và kháng trị hoặc tái phát với ít nhất một điều trị giảm tiểu cầu miễn dịch trước đó với số lượng tiểu cầu < 30.000/µL (n=67). Trong giai đoạn chọn ngẫu nhiên của nghiên cứu, các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên theo 3 phân tầng đoàn hệ theo tuổi (2:1) vào nhóm dùng eltrombopag (n = 45) hoặc giả dược (n = 22). Có thể điều chỉnh liều eltrombopag dựa trên số lượng tiểu cầu của từng bệnh nhân.
Nhìn chung, tỷ lệ bệnh nhân dùng eltrombopag lớn hơn có ý nghĩa (62%) so với tỷ lệ bệnh nhân dùng giả dược (32%) đạt được tiêu chí đánh giá chính (Tỷ số chênh: 4,3 [khoảng tin cậy 95%: 1,4, 13,3] p = 0,011).
Đáp ứng kéo dài đã được quan sát thấy ở 50% số người đáp ứng ở 20 trong số 24 tuần trong nghiên cứu PETIT 2 và 15 trong số 24 tuần trong nghiên cứu PETIT.
Nghiên cứu thiếu máu bất sản nặng
Eltrombopag đã được nghiên cứu trong một nghiên cứu đơn nhóm, đơn trung tâm, nhãn mở ở 43 bệnh nhân bị thiếu máu bất sản nặng kháng trị giảm tiểu cầu sau ít nhất một liệu pháp ức chế miễn dịch trước đó (IST) và những bệnh nhân có số lượng tiểu cầu ≤ 30.000/µL.
Phần lớn bệnh nhân, 33 bệnh nhân (77%) được xem là bị ‘bệnh kháng trị nguyên phát’, được định nghĩa là không có đáp ứng đầy đủ trước đó với liệu pháp ức chế miễn dịch (IST) ở bất kỳ dòng nào. 10 bệnh nhân còn lại có đáp ứng tiểu cầu không đủ với các liệu pháp trước đó. Tất cả 10 bệnh nhân đã được dùng ít nhất 2 phác đồ liệu pháp ức chế miễn dịch trước đó và 50% bệnh nhân đã được dùng ít nhất 3 phác đồ liệu pháp ức chế miễn dịch trước đó. Các bệnh nhân được chẩn đoán thiếu máu Fanconi, nhiễm khuẩn không đáp ứng với liệu pháp thích hợp, kích thước dòng PNH (hemoglobin niệu ban đêm kịch phát - Paroxysmal nocturnal hemoglobinuria) trong bạch cầu trung tính ≥ 50%, đã được loại trừ tham gia.
Lúc ban đầu, số lượng tiểu cầu trung vị là 20.000/µL, hemoglobin là 8,4 g/dL, số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối (ANC) là 0,58 x 10
9/L và số lượng hồng cầu lưới tuyệt đối là 24,3 x 10
9/L. 86% bệnh nhân phụ thuộc vào truyền hồng cầu và 91% bệnh nhân phụ thuộc vào truyền tiểu cầu. Phần lớn bệnh nhân (84%) đã được dùng ít nhất 2 liệu pháp ức chế miễn dịch trước đó. 3 bệnh nhân có bất thường về di truyền học tế bào học lúc ban đầu.
Tiêu chí đánh giá chính là đáp ứng về huyết học được đánh giá sau 12 tuần điều trị bằng eltrombopag. Đáp ứng về huyết học được định nghĩa là đáp ứng một hoặc nhiều tiêu chí sau: 1) số lượng tiểu cầu tăng lên 20.000/µL cao hơn mức ban đầu hoặc số lượng tiểu cầu ổn định không phụ thuộc truyền máu trong tối thiểu 8 tuần; 2) hemoglobin tăng > 1,5 g/dL, hoặc giảm truyền ≥ 4 đơn vị hồng cầu (RBC) trong 8 tuần liên tiếp; 3) số lượng bạch cầu trung tính tuyệt đối (ANC) tăng 100% hoặc ANC tăng > 0,5 x 10
9/L.
Tỷ lệ đáp ứng về huyết học là 40% (17/43 bệnh nhân; khoảng tin cậy 95% 25, 56), phần lớn là đáp ứng một dòng (13/17, 76%) trong khi có 3 đáp ứng 2 dòng và 1 đáp ứng 3 dòng ở tuần thứ 12. Eltrombopag đã được ngừng lại sau 16 tuần nếu không quan sát thấy đáp ứng về huyết học hoặc không phụ thuộc truyền máu. Những bệnh nhân đáp ứng tiếp tục điều trị trong giai đoạn mở rộng của nghiên cứu. Tổng cộng có 14 bệnh nhân bước vào giai đoạn mở rộng của thử nghiệm. 9 trong số những bệnh nhân này đã đạt được đáp ứng đa dòng, 4 trong số 9 bệnh nhân vẫn tiếp tục điều trị và 5 bệnh nhân giảm dần điều trị bằng eltrombopag và đã duy trì đáp ứng (thời gian theo dõi trung vị: 20,6 tháng, trong khoảng 5,7-22,5 tháng). 5 bệnh nhân còn lại đã ngừng điều trị, 3 bệnh nhân là do tái phát vào lần thăm khám mở rộng ở tháng thứ 3.
Trong khi điều trị bằng eltrombopag, 59% bệnh nhân (23/39) đã trở nên không phụ thuộc truyền tiểu cầu (28 ngày không truyền tiểu cầu) và 27% bệnh nhân (10/37) trở nên không phụ thuộc truyền hồng cầu (56 ngày không truyền hồng cầu). Thời gian không truyền tiểu cầu dài nhất đối với những người không đáp ứng là 27 ngày (trung vị). Thời gian không truyền tiểu cầu dài nhất đối với người đáp ứng là 287 ngày (trung vị). Thời gian không truyền hồng cầu dài nhất đối với những người không đáp ứng là 29 ngày (trung vị). Thời gian không truyền hồng cầu dài nhất đối với những người đáp ứng là 266 ngày (trung vị).
Hơn 50% số người đáp ứng là những người phụ thuộc vào truyền máu lúc ban đầu, đã giảm > 80% về nhu cầu truyền cả tiểu cầu và hồng cầu so với ban đầu.
Kết quả sơ bộ từ một nghiên cứu hỗ trợ (Nghiên cứu ELT116826) là một nghiên cứu không ngẫu nhiên, pha II, đơn nhóm, nhãn mở ở bệnh nhân bị thiếu máu bất sản nặng (SAA) kháng trị, cho thấy kết quả đồng nhất. Dữ liệu hạn chế chỉ ở 21 trong số 60 bệnh nhân được dự định có đáp ứng về huyết học được báo cáo bởi 52% bệnh nhân sau 6 tháng. Đáp ứng đa dòng được báo cáo bởi 45% bệnh nhân.
DỮ LIỆU AN TOÀN PHI LÂM SÀNG
Dược lý an toàn và độc tính liều lặp lại
Eltrombopag không kích thích sản sinh tiểu cầu ở chuột nhắt, chuột cống hoặc chó vì tính đặc hiệu của thụ thể thrombopoietin (TPO). Do đó, dữ liệu từ những động vật này không cung cấp mô hình đầy đủ về các tác dụng bất lợi có thể xảy ra liên quan đến dược lý học của eltrombopag ở người, bao gồm các nghiên cứu về sinh sản và khả năng gây ung thư.
Đục thủy tinh thể liên quan đến điều trị đã được phát hiện ở loài gặm nhấm và phụ thuộc liều và thời gian. Ở liều ≥ 6 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên các bệnh nhân người lớn bị giảm tiểu cầu miễn dịch (ITP) với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC, đã quan sát thấy đục thủy tinh thể ở chuột nhắt sau 6 tuần và ở chuột cống sau 28 tuần dùng thuốc. Ở liều ≥ 4 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người dựa trên AUC trên các bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC, đã quan sát thấy đục thủy tinh thể ở chuột nhắt sau 13 tuần và ở chuột cống sau 39 tuần dùng thuốc. Ở liều không được dung nạp trên chuột cống chưa trưởng thành trước khi cai sữa được dùng từ ngày thứ 4-32 (xấp xỉ bằng với một trẻ 2 tuổi vào cuối giai đoạn dùng thuốc), đã quan sát thấy mờ đục mắt (mô học không được thực hiện) ở liều gấp 9 lần phơi nhiễm lâm sàng tối đa ở người trên các bệnh nhân trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC. Tuy nhiên, không quan sát thấy đục thủy tinh thể ở chuột cống chưa trưởng thành được cho dùng liều dung nạp gấp 5 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC. Chưa quan sát thấy đục thủy tinh thể ở chó trưởng thành sau 52 tuần dùng thuốc ở liều gấp 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên các bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC.
Đã quan sát thấy độc tính trên ống thận trong các nghiên cứu kéo dài đến 14 ngày trên chuột cống và chuột nhắt ở các mức phơi nhiễm thường liên quan đến bệnh tật và tử vong. Độc tính trên ống thận cũng được quan sát thấy trong một nghiên cứu về khả năng gây ung thư theo đường uống kéo dài 2 năm trên chuột nhắt ở các liều 25, 75 và 150 mg/kg/ngày. Các tác dụng này ít nặng hơn ở liều thấp hơn và đặc trưng bởi một loạt thay đổi tái tạo. Phơi nhiễm ở liều thấp nhất gấp 1,2 hoặc 0,8 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người dựa trên AUC trên các bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày. Không quan sát thấy các tác dụng trên thận ở chuột cống sau 28 tuần hoặc ở chó sau 52 tuần ở mức phơi nhiễm gấp 4 lần và 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn bị giảm tiểu cầu miễn dịch và gấp 3 lần và 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC.
Thoái hóa và/hoặc hoại tử tế bào gan, thường đi kèm với tăng enzym gan trong huyết thanh, đã được quan sát thấy ở chuột nhắt, chuột cống và chó ở liều liên quan đến bệnh tật và tử vong hoặc dung nạp kém. Không quan sát thấy các tác dụng trên gan sau khi dùng thuốc lâu dài ở chuột cống (28 tuần) và ở chó (52 tuần) ở liều gấp 4 lần hoặc 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn bị giảm tiểu cầu miễn dịch và gấp 3 lần hoặc 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC.
Ở liều được dung nạp kém trên chuột cống và chó (gấp > 10 lần hoặc 7 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC), giảm số lượng hồng cầu lưới và tăng sản tái tạo dòng hồng cầu tủy xương (chỉ ở chuột cống) đã được quan sát thấy trong các nghiên cứu ngắn hạn. Không có tác dụng nào đáng chú ý đối với khối lượng hồng cầu hoặc số lượng hồng cầu lưới sau khi dùng thuốc đến 28 tuần ở chuột cống, 52 tuần ở chó và 2 năm ở chuột nhắt hoặc chuột cống ở liều dung nạp tối đa gấp 2-4 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC.
Phì đại xương trong màng xương đã được quan sát thấy trong một nghiên cứu về độc tính trong 28 tuần trên chuột cống ở liều không được dung nạp 60 mg/kg/ngày (gấp 6 lần hoặc 4 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Không quan sát thấy thay đổi nào về xương ở chuột nhắt hoặc chuột cống sau khi sử dụng thuốc suốt thời gian sống (2 năm) ở liều gấp 4 lần hoặc 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC.
Khả năng gây ung thư và tính gây đột biến
Eltrombopag không gây ung thư trên chuột nhắt ở liều lên đến 75 mg/kg/ngày hoặc trên chuột cống ở liều lên đến 40 mg/kg/ngày (phơi nhiễm lên đến 4 lần hoặc 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Eltrombopag không gây đột biến hoặc gây gãy nhiễm sắc thể trong thử nghiệm đột biến vi khuẩn hoặc trong 2 thử nghiệm
in vivo ở chuột cống (thử nghiệm nhân nhỏ và thử nghiệm tổng hợp DNA không theo chương trình, gấp 10 lần hoặc 8 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên C
max). Trong thử nghiệm u lympho trên chuột nhắt
in vitro, eltrombopag gần dương tính (tần suất đột biến tăng < 3 lần). Những phát hiện
in vitro và
in vivo này cho thấy eltrombopag không gây nguy cơ độc tính gen trên người.
Độc tính đối với sinh sản
Eltrombopag không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chuột cống cái và sự phát triển của phôi hoặc phôi-thai sớm ở liều lên đến 20 mg/kg/ngày (gấp 2 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc thiếu niên (12-17 tuổi) bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Ngoài ra, không có ảnh hưởng nào đến sự phát triển của phôi-thai trên thỏ ở liều lên đến 150 mg/kg/ngày là liều cao nhất được thử nghiệm (gấp 0,3-0,5 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Tuy nhiên, với liều gây độc cho động vật mẹ là 60 mg/kg/ngày (gấp 6 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC) ở chuột cống, điều trị bằng eltrombopag có liên quan đến chết phôi (tăng mất phôi trước và sau khi làm tổ), giảm trọng lượng của thai và trọng lượng tử cung mang thai trong nghiên cứu về khả năng sinh sản ở chuột cống cái, tỷ lệ thấp về xương sườn cổ và giảm thể trọng của thai trong nghiên cứu về sự phát triển của phôi-thai. Eltrombopag chỉ nên được sử dụng trong thai kỳ nếu lợi ích dự kiến biện minh được cho nguy cơ có thể xảy ra đối với thai (xem phần
Sử dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú). Eltrombopag không ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của chuột cống đực ở liều lên đến 40 mg/kg/ngày là liều cao nhất được thử nghiệm (gấp 3 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân bị giảm tiểu cầu mạn tính với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Trong nghiên cứu về sự phát triển trước và sau khi sinh ở chuột cống, không có tác dụng không mong muốn đối với sự mang thai, sinh đẻ hoặc cho con bú ở chuột cống thế hệ F
0 ở liều không gây độc cho mẹ (10 và 20 mg/kg/ngày) và không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, phát triển, chức năng hành vi thần kinh hoặc chức năng sinh sản của con (thế hệ F
1). Eltrombopag đã được phát hiện trong huyết tương của tất cả các chuột cống thế hệ F
1 trong toàn bộ thời gian lấy mẫu 22 giờ sau khi dùng thuốc cho chuột mẹ thế hệ F
0, cho thấy rằng chuột con phơi nhiễm eltrombopag có thể qua đường cho con bú.
Độc tính ánh sáng
Các nghiên cứu
in vitro với eltrombopag cho thấy nguy cơ độc tính ánh sáng có thể xảy ra; tuy nhiên, ở động vật gặm nhấm không có bằng chứng về độc tính ánh sáng trên da (ở liều gấp 10 hoặc 7 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC) hoặc độc tính ánh sáng ở mắt (ở liều ≥ 4 lần phơi nhiễm lâm sàng ở người trên bệnh nhân người lớn hoặc trẻ em bị giảm tiểu cầu miễn dịch với liều 75 mg/ngày dựa trên AUC). Hơn nữa, một nghiên cứu dược lý lâm sàng ở 36 đối tượng đã cho thấy không có bằng chứng về việc độc tính ánh sáng tăng lên sau khi dùng eltrombopag 75 mg. Điều này được đo bằng chỉ số tác dụng độc của ánh sáng chậm. Tuy nhiên, có thể loại trừ nguy cơ dị ứng ánh sáng vì không có nghiên cứu tiền lâm sàng đặc hiệu nào có thể được thực hiện.
Các nghiên cứu ở động vật chưa trưởng thành
Ở liều không được dung nạp trên chuột cống trước khi cai sữa, đã quan sát thấy mờ đục mắt. Ở liều được dung nạp, không quan sát thấy mờ đục mắt (xem tiểu mục ở trên ‘Dược lý an toàn và độc tính liều lặp lại’). Kết luận, có tính đến ngưỡng nồng độ dựa trên AUC, không thể loại trừ nguy cơ đục thủy tinh thể liên quan đến eltrombopag trên bệnh nhân trẻ em. Không có phát hiện nào ở chuột cống chưa trưởng thành cho thấy nguy cơ độc tính cao hơn với điều trị bằng eltrombopag trên bệnh nhân trẻ em so với bệnh nhân người lớn bị giảm tiểu cầu miễn dịch.