Nhóm dược lý: Điều trị ức chế miễn dịch, ức chế yếu tố gây hoại tử u alpha (TNF-α), mã ATC: L04AB06.
Cơ chế tác dụng
Golimumab là kháng thể đơn dòng của người, tạo thành phức hợp có ái lực cao, bền vững với cả 2 dạng có hoạt tính sinh học của TNF-α ở người là dạng hòa tan và xuyên màng, kháng thể này ngăn cản TNF-α gắn vào thụ thể.
Tác dụng dược lực học
Việc golimumab gắn vào TNF của người đã được chứng minh làm trung hòa sự bộc lộ trên bề mặt các tế bào do TNF-α kích thích của các phân tử kết dính E-selectin, phân tử kết dính tế bào thành mạch (VCAM)-1 và phân tử kết dính giữa các tế bào (ICAM)-1 do các tế bào nội mạc của người tiết ra. In vitro, việc tiết interleukin (IL)-6, IL-8 và yếu tố tăng sinh dòng tế bào hạt-đại thực bào (granulocyte-macrophage colony stimulating factor (GM-CSF)) từ các tế bào nội mạc của người do TNF kích thích cũng bị ức chế bởi golimumab.
Cải thiện nồng độ protein phản ứng-C (CRP) đã được ghi nhận so với nhóm dùng giả dược và điều trị với SIMPONI dẫn đến giảm đáng kể nồng độ IL-6, ICAM-1, matrix metalloproteinase (MMP)-3 và yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu (VEGF) trong huyết thanh tính từ trị số ban đầu khi so với nhóm chứng. Ngoài ra, nồng độ TNF-α đã giảm ở các bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp (RA) và viêm cột sống dính khớp (AS) và nồng độ IL-8 đã giảm ở bệnh nhân bị viêm khớp vẩy nến (PsA). Những thay đổi này được quan sát thấy tại đợt đánh giá đầu tiên (tuần 4) sau khi bắt đầu dùng SIMPONI và thường được duy trì đến tuần 24.
Hiệu quả lâm sàng
Viêm khớp dạng thấp
Hiệu quả của SIMPONI được chứng minh trong 3 nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với giả dược trên hơn 1500 bệnh nhân ≥18 tuổi bị viêm khớp dạng thấp thể hoạt động, mức độ trung bình đến nặng được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Viện thấp khớp của Mỹ (ACR) ít nhất 3 tháng trước khi sàng lọc vào nghiên cứu. Bệnh nhân có ít nhất 4 khớp sưng và 4 khớp đau. SIMPONI hoặc giả dược được tiêm dưới da mỗi 4 tuần.
Nghiên cứu GO-FORWARD đánh giá 444 bệnh nhân bị RA thể hoạt động dù đang dùng MTX liều ổn định ít nhất 15 mg/tuần và không được điều trị trước đó với thuốc ức chế TNF. Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên để nhận hoặc giả dược + MTX, SIMPONI 50 mg + MTX, SIMPONI 100 mg + MTX hoặc SIMPONI 100 mg + giả dược. Bệnh nhân đang dùng giả dược + MTX được chuyển sang SIMPONI 50 mg + MTX sau tuần 24. Tại tuần 52, bệnh nhân bước vào giai đoạn nghiên cứu mở rộng, dài hạn và nhãn mở.
Nghiên cứu GO-AFTER đánh giá 445 bệnh nhân đã điều trị trước đó với một hoặc nhiều thuốc kháng TNF như adalimumab, etanercept, hoặc infliximab. Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên để nhận giả dược, SIMPONI 50 mg, hoặc SIMPONI 100 mg. Bệnh nhân được phép tiếp tục dùng đồng thời DMARD với MTX, sulfasalazine (SSZ), và/hoặc hydroxychloroquine (HCQ) trong thời gian nghiên cứu. Những lý do được nêu rõ cho việc ngừng liệu pháp kháng TNF trước đây là thiếu hiệu quả (58%), không dung nạp (13%), và/hoặc các lý do khác ngoài tính an toàn hoặc hiệu quả (29%, chủ yếu là lý do tài chính).
Nghiên cứu GO-BEFORE đánh giá 637 bệnh nhân có RA thể hoạt động chưa được điều trị với MTX và không dùng bất kỳ thuốc ức chế TNF nào trước đó. Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên để nhận giả dược + MTX, SIMPONI 50 mg + MTX, SIMPONI 100 mg + MTX hoặc SIMPONI 100 mg + giả dược. Tại tuần 52, bệnh nhân bước vào giai đoạn nghiên cứu mở rộng, dài hạn và nhãn mở, trong đó các bệnh nhân đang nhận giả dược + MTX đã có ít nhất 1 khớp đau hoặc sưng sẽ được chuyển sang dùng SIMPONI 50 mg + MTX.
Trong nghiên cứu GO-FORWARD, các tiêu chí đồng đánh giá chính là phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ACR 20 tại tuần 14 và sự cải thiện điểm số của Bảng đánh giá sức khỏe (HAQ) tại tuần 24 so với ban đầu. Trong nghiên cứu GO-AFTER, tiêu chí đánh giá chính là phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ACR 20 tại tuần 14. Trong nghiên cứu GO-BEFORE, các tiêu chí đồng đánh giá chính là phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ACR 50 tại tuần 24 và sự thay đổi điểm số vdH-S (van der Heijde-modified Sharp) tại tuần 52 so với ban đầu. Ngoài các tiêu chí đánh giá chính này, các đánh giá bổ sung về tác động của điều trị SIMPONI lên các dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp, đáp ứng trên hình ảnh X quang, hoạt động thể chất và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe cũng được thực hiện.
Nhìn chung, không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng trong các trị số đánh giá hiệu quả giữa phác đồ SIMPONI 50 mg và 100 mg dùng đồng thời với MTX đến tuần 104 trong nghiên cứu GO-FORWARD và nghiên cứu GO-BEFORE và đến tuần 24 trong nghiên cứu GO-AFTER. Theo thiết kế nghiên cứu trong mỗi nghiên cứu về viêm khớp dạng thấp, bệnh nhân tham gia giai đoạn nghiên cứu mở rộng dài hạn có thể được chuyển đổi giữa liều SIMPONI 50 mg và 100 mg tùy theo quyết định của bác sỹ nghiên cứu.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các kết quả ACR quan trọng đối với SIMPONI liều 50 mg tại tuần 14, 24 và 52 trong các nghiên cứu GO-FORWARD, GO-AFTER và GO-BEFORE được thể hiện trong Bảng 1 và được mô tả dưới đây. Các đáp ứng đã được quan sát thấy trong đợt đánh giá đầu tiên (tuần 4) sau khi bắt đầu dùng SIMPONI.
Trong nghiên cứu GO-FORWARD, trong số 89 đối tượng được phân ngẫu nhiên dùng SIMPONI 50 mg + MTX, có 48 đối tượng vẫn dùng phác đồ này tại tuần 104. Trong số đó, có 40, 33 và 24 bệnh nhân theo thứ tự có đáp ứng ACR 20/50/70 tại tuần 104. Tỷ lệ tương tự về đáp ứng ACR 20/50/70 cũng được quan sát thấy từ tuần 104 đến tuần 256 trong số các bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI.
Trong nghiên cứu GO-AFTER, phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ACR 20 cao hơn ở nhóm bệnh nhân đang dùng SIMPONI so với nhóm bệnh nhân đang dùng giả dược, bất kể lý do đã báo cáo về việc ngừng một hoặc nhiều điều trị ức chế TNF trước đó.
- xem Bảng 1.

Trong nghiên cứu GO-BEFORE, kết quả phân tích chính ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp mức độ trung bình đến nặng (đáp ứng ACR 50 ở nhóm dùng kết hợp SIMPONI 50 mg và 100 mg + MTX so với nhóm dùng MTX đơn độc) không có ý nghĩa thống kê tại tuần 24 (p=0,053). Tại tuần 52 trong toàn bộ quần thể, phần trăm bệnh nhân ở nhóm dùng SIMPONI 50 mg + MTX đã đạt đáp ứng ACR nhìn chung cao hơn nhưng khác biệt không đáng kể so với nhóm dùng MTX đơn độc (xem Bảng 1). Phân tích bổ sung được thực hiện trên các phân nhóm bệnh nhân được chỉ định có viêm khớp dạng thấp tiến triển, thể hoạt động và nặng. Hiệu quả điều trị nói chung cao hơn ở nhóm dùng SIMPONI 50 mg + MTX so với MTX đơn độc đã được chứng minh trong quần thể chỉ định so với toàn bộ quần thể.
Trong các nghiên cứu GO-FORWARD và GO-AFTER, đã ghi nhận các đáp ứng có ý nghĩa trên lâm sàng và thống kê về Thang điểm đánh giá mức độ hoạt động bệnh (DAS)28 tại mỗi thời điểm đã định trước, tại tuần 14 và tuần 24 (p≤0,001). Trong số những bệnh nhân còn điều trị với SIMPONI mà họ được nhận ngẫu nhiên từ đầu nghiên cứu, các đáp ứng DAS28 vẫn duy trì đến tuần 104. Trong số bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, các đáp ứng DAS28 cũng tương tự từ tuần 104 đến tuần 256.
Trong nghiên cứu GO-BEFORE, đã đánh giá đáp ứng lâm sàng chính theo định nghĩa là việc duy trì đáp ứng ACR 70 trong thời gian 6 tháng liên tục. Tại tuần 52, 15% bệnh nhân trong nhóm dùng SIMPONI 50 mg + MTX đã đạt được đáp ứng lâm sàng chính so với 7% bệnh nhân trong nhóm dùng giả dược + MTX (p=0,018). Trong số 159 đối tượng được nhận ngẫu nhiên vào nhóm SIMPONI 50 mg + MTX, 96 bệnh nhân vẫn còn dùng phác đồ điều trị này tại tuần 104; trong đó có 85, 66 và 53 bệnh nhân tương ứng đã có đáp ứng ACR 20/50/70 tại tuần 104. Tỷ lệ tương tự về đáp ứng ACR 20/50/70 cũng được quan sát thấy từ tuần 104 đến tuần 256 trong số các bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI.
Đáp ứng trên X quang
Nghiên cứu GO-BEFORE đã sử dụng sự thay đổi điểm số vdH-S so với giá trị ban đầu để đánh giá mức độ tổn thương cấu trúc của khớp; đây là điểm số tổng hợp về sự tổn thương cấu trúc đánh giá bằng X quang về số lượng và kích thước của sự bào mòn khớp và mức độ hẹp khe khớp ở bàn tay/cổ tay và bàn chân. Bảng 2 trình bày các kết quả quan trọng đối với liều SIMPONI 50 mg tại tuần 52.
Nhóm điều trị SIMPONI có nhiều hơn đáng kể số bệnh nhân không có các hình ảnh bào mòn mới hoặc thay đổi tổng điểm vdH-S ≤ 0 so với ban đầu, khi so với nhóm chứng (p=0,003). Hiệu quả trên X quang quan sát được tại tuần 52 vẫn duy trì đến tuần 104. Trong số bệnh nhân vẫn còn tham gia nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, hiệu quả trên X quang đều giống nhau từ tuần 104 đến tuần 256.
- xem Bảng 2.

Hoạt động thể chất và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe
Hoạt động thể chất và sự tàn tật là tiêu chí đánh giá riêng biệt trong nghiên cứu GO-FORWARD, trong khi nghiên cứu GO-AFTER dùng chỉ số tàn tật của Bảng câu hỏi HAQ-DI. Trong các nghiên cứu này, điểm số HAQ DI tại tuần 24 so với ban đầu đã cải thiện có ý nghĩa lâm sàng và trên thống kê ở nhóm dùng SIMPONI so với nhóm chứng. Cải thiện điểm số HAQ DI vẫn duy trì đến tuần 104 trong số bệnh nhân còn dùng trị liệu SIMPONI mà họ được nhận ngẫu nhiên từ đầu nghiên cứu. Cải thiện điểm số HAQ DI vẫn tương tự từ tuần 104 đến tuần 256 trong số bệnh nhân còn tham gia nghiên cứu và dùng SIMPONI.
Trong nghiên cứu GO-FORWARD, cải thiện có ý nghĩa lâm sàng và ý nghĩa thống kê về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe đã được chứng minh ở nhóm bệnh nhân dùng SIMPONI so với nhóm dùng giả dược khi đánh giá điểm số thành phần thể chất của bảng đánh giá chất lượng cuộc sống SF-36 tại tuần 24. Trong số những bệnh nhân còn điều trị SIMPONI mà họ được nhận ngẫu nhiên từ đầu nghiên cứu, cải thiện thành phần thể chất trong Bảng SF-36 vẫn duy trì đến tuần 104. Trong số những bệnh nhân còn tham gia nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, cải thiện thành phần thể chất của bảng đánh giá SF-36 cũng tương tự từ tuần 104 đến tuần 256. Trong các nghiên cứu GO-FORWARD và GO-AFTER, đã quan sát thấy cải thiện mức độ mệt mỏi có ý nghĩa thống kê được đo qua Thang điểm Đánh giá chức năng của phương pháp trị liệu bệnh mạn tính (FACIT-F).
Viêm khớp vẩy nến
Tính an toàn và hiệu quả của SIMPONI được đánh giá trong một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược (nghiên cứu GO-REVEAL) trên 405 bệnh nhân người lớn bị viêm khớp vẩy nến (PsA) thể hoạt động (≥3 khớp sưng và ≥3 khớp đau) dù đang điều trị kháng viêm không steroid (NSAID) hoặc DMARD. Bệnh nhân trong nghiên cứu này đã được chẩn đoán PsA ít nhất 6 tháng và bệnh vẩy nến ít nhất từ mức độ nhẹ. Các bệnh nhân với mỗi thể bệnh (sub-type) viêm khớp vẩy nến được thu nhận vào nghiên cứu này, gồm viêm đa khớp không có nốt thấp (43%), viêm khớp ngoại biên không đối xứng (30%), viêm khớp liên đốt ngón xa (DIP) (15%), viêm cột sống kèm viêm khớp ngoại biên (11%) và viêm khớp biến dạng nặng (1%). Nghiên cứu này không chấp nhận bệnh nhân có điều trị trước đây với một thuốc ức chế TNF. SIMPONI hoặc giả dược được tiêm dưới da mỗi 4 tuần. Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên để dùng giả dược, SIMPONI 50 mg, hoặc SIMPONI 100 mg. Bệnh nhân đang dùng giả dược đã được chuyển sang SIMPONI 50 mg sau tuần 24. Bệnh nhân bước vào giai đoạn nghiên cứu mở rộng, dài hạn, nhãn mở tại tuần 52. Khoảng 48% bệnh nhân tiếp tục dùng methotrexate liều ổn định (≤ 25 mg/tuần). Các tiêu chí đồng đánh giá chính là phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ACR 20 tại tuần 14 và thay đổi tổng điểm vdH-S, phiên bản sửa đổi cho viêm khớp vẩy nến, tại tuần 24 so với ban đầu.
Nhìn chung, không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng trong các trị số đánh giá hiệu quả giữa chế độ liều SIMPONI 50 mg và 100 mg đến tuần 104. Theo thiết kế nghiên cứu, bệnh nhân tham gia giai đoạn nghiên cứu mở rộng dài hạn có thể được chuyển đổi giữa liều SIMPONI 50 mg và 100 mg tùy theo quyết định của bác sỹ nghiên cứu.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các kết quả quan trọng đối với liều 50 mg tại tuần 14 và tuần 24 được trình bày tại Bảng 3 và được mô tả sau đây.
- xem Bảng 3.

Đã quan sát thấy các đáp ứng điều trị trong đợt đánh giá đầu tiên (tuần 4) sau khi bắt đầu dùng SIMPONI. Các đáp ứng ACR 20 tương tự tại tuần 14 được ghi nhận ở những bệnh nhân bị viêm đa khớp không có nốt dạng thấp và thể bệnh viêm khớp ngoại biên không đối xứng của PsA. Số lượng bệnh nhân với các thể bệnh PsA khác lại quá ít để cho phép đánh giá có ý nghĩa. Các đáp ứng ghi nhận trong các nhóm dùng SIMPONI là tương tự ở các bệnh nhân đang dùng và không dùng đồng thời MTX. Trong số 146 bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên SIMPONI 50 mg, có 70 bệnh nhân vẫn điều trị ở tuần 104. Trong số 70 bệnh nhân này, có 64, 46 và 31 bệnh nhân tương ứng đạt đáp ứng ACR 20/50/70. Trong số bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, tỷ lệ đáp ứng ACR 20/50/70 tương tự được thấy từ tuần 104 đến tuần 256.
Cũng quan sát thấy các đáp ứng có ý nghĩa thống kê về DAS28 tại tuần 14 và 24 (p<0,05).
Cải thiện ở tuần 24 các thông số về đặc điểm hoạt động bệnh ngoại biên của viêm khớp vẩy nến (như số lượng khớp sưng, số lượng khớp bị đau/nhạy cảm đau, viêm sưng ngón và viêm chỗ bám gân) đã quan sát thấy ở những bệnh nhân dùng SIMPONI. Điều trị SIMPONI đem lại sự cải thiện đáng kể hoạt động thể chất qua đánh giá về HAQ DI, cũng như cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe được đánh giá qua tổng điểm thành phần thể chất và tinh thần của Bảng câu hỏi SF-36. Trong số những bệnh nhân còn điều trị SIMPONI mà họ được nhận ngẫu nhiên từ đầu nghiên cứu, các đáp ứng DAS28 và HAQ DI vẫn duy trì đến tuần 104. Tỷ lệ các đáp ứng DAS28 và HAQ DI vẫn tương tự từ tuần 104 đến tuần 256 trong số các bệnh nhân còn tiếp tục tham gia nghiên cứu và điều trị với SIMPONI.
Đáp ứng trên X quang
Tổn thương cấu trúc ở cả bàn tay và bàn chân được đánh giá trên X quang qua sự thay đổi so với ban đầu về điểm số vdH-S, theo phiên bản sửa đổi cho bệnh viêm khớp vẩy nến bằng cách bổ sung đánh giá viêm khớp liên đốt xa của bàn tay (DIP).
Điều trị SIMPONI 50 mg làm giảm tỷ lệ tiến triển tổn thương khớp ngoại biên khi so với điều trị giả dược tại tuần 24, qua đánh giá sự thay đổi so với ban đầu về tổng điểm vdH-S phiên bản sửa đổi (giá trị trung bình ± SD là 0,27±1,3 ở nhóm giả dược so với -0,16±1,3 ở nhóm SIMPONI; p=0,011). Trong số 146 bệnh nhân được nhận ngẫu nhiên SIMPONI 50 mg, có 126 bệnh nhân có dữ liệu về X quang tại tuần 52 và 77% bệnh nhân trong số này đã không có bệnh tiến triển so với ban đầu. Tại tuần 104, 114 bệnh nhân có dữ liệu về X quang và 77% số bệnh nhân này không có bệnh tiến triển so với ban đầu. Trong số bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, tỷ lệ bệnh nhân không tiến triển so với ban đầu đều tương tự từ tuần 104 đến tuần 256.
Viêm cột sống khớp trục
Viêm cột sống dính khớp
Tính an toàn và hiệu quả của SIMPONI được đánh giá trong một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược (nghiên cứu GO-RAISE) trên 356 bệnh nhân người lớn bị viêm cột sống dính khớp thể hoạt động (xác định bởi Chỉ số hoạt động bệnh Viêm cột sống dính khớp (BASDAI) ≥4 và tổng điểm mức độ đau lưng VAS ≥4, trên thang điểm từ 0 đến 10cm). Bệnh nhân tham gia nghiên cứu này có bệnh thể hoạt động dù hiện tại hoặc trước đây đã điều trị NSAID hoặc DMARD và chưa được điều trị trước đó với thuốc ức chế TNF. SIMPONI hoặc giả dược được tiêm dưới da mỗi 4 tuần.
Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên để nhận giả dược, SIMPONI 50 mg và SIMPONI 100 mg và được phép tiếp tục dùng đồng thời trị liệu DMARD (MTX, SSZ và/hoặc HCQ). Tiêu chí đánh giá chính là phần trăm bệnh nhân đạt đáp ứng ASAS 20 (ASAS: Hiệp hội quốc tế đánh giá viêm cột sống dính khớp) tại tuần 14. Dữ liệu về hiệu quả điều trị có đối chứng với giả dược được thu thập và phân tích đến tuần 24.
Các kết quả quan trọng đối với liều 50 mg được thể hiện trong Bảng 4 và được mô tả dưới đây. Nhìn chung, không có sự khác biệt có ý nghĩa lâm sàng trong các trị số đánh giá hiệu quả giữa chế độ liều SIMPONI 50 mg và 100 mg đến tuần 24. Theo thiết kế nghiên cứu, bệnh nhân tham gia giai đoạn nghiên cứu mở rộng dài hạn có thể được chuyển đổi giữa liều SIMPONI 50 mg và 100 mg tùy theo quyết định của bác sỹ nghiên cứu.
- xem Bảng 4.

Trong số bệnh nhân còn lại trong nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng ASAS 20 và ASAS 40 cũng tương tự nhau từ tuần 24 đến tuần 256.
Đáp ứng BASDAI 50, 70 và 90 có ý nghĩa thống kê (p≤0,017) cũng được ghi nhận tại tuần 14 và 24. Cải thiện các thông số đánh giá quan trọng về mức độ hoạt động của bệnh cũng được nhận thấy ở đợt đánh giá đầu tiên (tuần 4) sau khi bắt đầu điều trị SIMPONI và được duy trì đến tuần 24. Trong số bệnh nhân còn tham gia nghiên cứu và điều trị với SIMPONI, tỷ lệ tương tự về thay đổi chỉ số BASDAI so với ban đầu được ghi nhận từ tuần 24 đến tuần 256. Hiệu quả điều trị vẫn không thay đổi, được đánh giá qua đáp ứng ASAS 20 tại tuần 14, bất kể bệnh nhân có sử dụng trị liệu DMARD (MTX, sulfasalazine và/hoặc hydroxychloroquine), tình trạng kháng nguyên HLA-B27 hoặc nồng độ CRP ban đầu.
Điều trị SIMPONI đem lại sự cải thiện đáng kể hoạt động thể chất qua đánh giá về sự thay đổi chỉ số BASFI (BASFI: Chỉ số chức năng viêm cột sống dính khớp) tại tuần 14 và 24 so với ban đầu. Chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe được đánh giá qua điểm số thành phần thể chất của Bảng câu hỏi SF-36 cũng cải thiện đáng kể tại tuần 14 và 24. Trong số những bệnh nhân còn tham gia nghiên cứu và điều trị SIMPONI, mức độ cải thiện hoạt động thể chất và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe cũng tương tự từ tuần 24 đến tuần 256.
Viêm cột sống khớp trục không có hình ảnh tổn thương trên X quang
Tính an toàn và hiệu quả của SIMPONI được đánh giá trong một nghiên cứu đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược (nghiên cứu GO-AHEAD) ở 197 bệnh nhân người lớn bị nr-Axial SpA thể hoạt động nặng (được định nghĩa là những bệnh nhân đạt các tiêu chí phân loại ASAS về viêm cột sống khớp trục nhưng không đạt các tiêu chuẩn chẩn đoán New York đã sửa đổi cho viêm cột sống dính khớp). Bệnh nhân tham gia nghiên cứu này có bệnh thể hoạt động (xác định bởi chỉ số BASDAI ≥4 và tổng điểm mức độ đau lưng VAS ≥4, trên thang điểm 0-10cm) dù hiện tại hoặc trước đây đã điều trị NSAID và chưa được điều trị trước đó với bất kỳ thuốc sinh học nào bao gồm thuốc ức chế TNF. Bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên dùng giả dược hoặc SIMPONI 50 mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần. Tại tuần 16, bệnh nhân bước vào giai đoạn nghiên cứu nhãn mở mà tất cả bệnh nhân đều nhận SIMPONI 50 mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần cho đến hết tuần 48 với các đánh giá hiệu quả được thực hiện qua tuần 52 và theo dõi an toàn qua tuần 60. Xấp xỉ 93% bệnh nhân sử dụng SIMPONI thời điểm bắt đầu của giai đoạn kéo dài nhãn mở (tuần 16) đã duy trì điều trị đến khi kết thúc nghiên cứu (tuần 52). Các phân tích được thực hiện trên cả hai quần thể là Tất cả quần thể được điều trị (AT, N=197) và quần thể có Các dấu hiệu khách quan về Viêm (OSI, N=158, được xác định bởi tăng cao nồng độ protein phản ứng C (CRP) và/hoặc bằng chứng viêm khớp cùng - chậu trên hình ảnh MRI lúc ban đầu). Dữ liệu về hiệu quả điều trị có đối chứng với giả dược được thu thập và phân tích đến tuần 16. Tiêu chí đánh giá chính là tỷ lệ bệnh nhân đạt đáp ứng ASAS 20 tại tuần 16. Các kết quả quan trọng được thể hiện trong Bảng 5 và được mô tả dưới đây.
- xem Bảng 5.

Mức độ cải thiện có ý nghĩa thống kê về các dấu hiệu và triệu chứng của nr-Axial SpA thể hoạt động nặng đã được chứng minh ở những bệnh nhân dùng SIMPONI 50 mg so với giả dược tại tuần 16 (Bảng 5). Sự cải thiện được quan sát thấy tại đợt đánh giá đầu tiên (tuần 4) sau khi bắt đầu dùng SIMPONI. Điểm số theo tiêu chuẩn SPARCC đánh giá qua MRI đã cho thấy mức độ giảm có ý nghĩa thống kê về tình trạng viêm các khớp cùng-chậu (SI) tại tuần 16 ở bệnh nhân dùng SIMPONI 50 mg so với dùng giả dược (Bảng 5). Mức độ đau đánh giá qua tổng điểm VAS về đau lưng và đau lưng về đêm, và mức độ hoạt động của bệnh được đánh giá bởi ASDAS-C cũng cho thấy sự cải thiện có ý nghĩa thống kê tại tuần 16 so với trị số ban đầu ở bệnh nhân dùng SIMPONI 50 mg so với giả dược (p<0,0001).
So với bệnh nhân dùng giả dược, bệnh nhân dùng SIMPONI 50 mg đã có mức độ cải thiện có ý nghĩa thống kê (p<0,0001) về mức độ vận động cột sống qua đánh giá điểm số BASMI (Chỉ số Bath đánh giá viêm cột sống dính khớp) và về hoạt động thể chất qua đánh giá điểm số BASFI. So với bệnh nhân dùng giả dược, bệnh nhân dùng SIMPONI đã cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe qua đánh giá ASQoL, EQ-5D, và các thành phần về thể chất và tinh thần của Bảng câu hỏi SF-36, và cải thiện đáng kể về năng suất qua đánh giá mức độ giảm nhiều hơn sự suy giảm các công việc nói chung và suy giảm hoạt động được đánh giá qua bảng câu hỏi WPAI.
Đối với tất cả các tiêu chí đánh giá được mô tả ở trên, các kết quả có ý nghĩa thống kê cũng được chứng minh trong quần thể OSI ở tuần 16.
Ở cả hai quần thể AT và OSI, sự cải thiện các dấu hiệu và triệu chứng, mức độ vận động cột sống, và hoạt động thể chất, chất lượng cuộc sống, và năng suất làm việc đã được quan sát tại tuần 16 trong số các bệnh nhân đã điều trị với SIMPONI 50 mg tiếp tục được quan sát ở những bệnh nhân còn lại ở nghiên cứu tại tuần 52.
Viêm loét đại tràng
Hiệu quả của SIMPONI được đánh giá trong 2 nghiên cứu lâm sàng phân nhóm ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng giả dược ở bệnh nhân người lớn.
Nghiên cứu giai đoạn dẫn nhập (nghiên cứu PURSUIT-Dẫn nhập) đã đánh giá bệnh nhân viêm loét đại tràng thể hoạt động mức độ trung bình đến nặng (điểm số Mayo là 6-12; điểm số phụ về nội soi ≥2) mà các bệnh nhân này không có đáp ứng đủ hoặc không dung nạp được các trị liệu quy ước, hoặc phải lệ thuộc corticosteroid. Trong phần dò liều của nghiên cứu, 761 bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào 1 trong các nhóm điều trị sau đây: 400 mg SIMPONI tiêm dưới da tại tuần 0 và 200 mg tại tuần 2, 200 mg SIMPONI tiêm dưới da tại tuần 0 và 100 mg tại tuần 2, hoặc giả dược tiêm dưới da tại tuần 0 và tuần 2. Các thuốc uống nhóm aminosalicylate, corticosteroid, và/hoặc các thuốc điều hòa miễn dịch với liều dùng ổn định được phép dùng đồng thời trong nghiên cứu. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của SIMPONI đến tuần 6.
Các kết quả của nghiên cứu giai đoạn duy trì (nghiên cứu PURSUIT-Duy trì) được dựa trên đánh giá 456 bệnh nhân đạt đáp ứng lâm sàng với SIMPONI từ giai đoạn dẫn nhập trước đó. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận SIMPONI 50 mg, SIMPONI 100 mg hoặc giả dược tiêm dưới da mỗi 4 tuần. Các thuốc uống nhóm aminosalicylate và/hoặc các thuốc điều hòa miễn dịch với liều dùng ổn định được phép dùng đồng thời.
Corticosteroid được giảm liều dần khi bắt đầu nghiên cứu giai đoạn duy trì. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của SIMPONI đến tuần 54. Những bệnh nhân đã hoàn thành nghiên cứu duy trì qua tuần 54 được tiếp tục điều trị trong nghiên cứu kéo dài, hiệu quả được đánh giá qua tuần 216. Đánh giá hiệu quả trong nghiên cứu kéo dài dựa trên thay đổi việc sử dụng corticosteroid, đánh giá tổng thể của bác sỹ (PGA) về hoạt động của bệnh, và sự cải thiện chất lượng cuộc sống được định lượng bởi bảng câu hỏi về bệnh viêm ruột (IBDQ).
- xem Bảng 6.

Số bệnh nhân dùng SIMPONI đã duy trì tình trạng lành niêm mạc (bệnh nhân có biểu hiện lành niêm mạc ở cả hai tuần 30 và tuần 54) gặp nhiều hơn trong nhóm 50 mg (42%, p lý thuyết <0,05) và nhóm 100 mg (42%, p<0,005) so với nhóm giả dược (27%).
Trong số 54% bệnh nhân (247/456) dùng corticosteroid đồng thời từ lúc bắt đầu vào nghiên cứu PURSUIT-Duy trì, tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng duy trì đến tuần 54 và đã không dùng corticosteroid đồng thời tại tuần 54 được ghi nhận cao hơn ở nhóm dùng 50 mg (38%, 30/78) và nhóm dùng 100 mg (30%, 25/82) so với nhóm dùng giả dược (21%, 18/87). Tỷ lệ bệnh nhân ngừng hẳn corticosteroid tại tuần 54 ở nhóm 50 mg (41%, 32/78) và nhóm 100 mg (33%, 27/82) cũng cao hơn so với nhóm dùng giả dược (22%, 19/87). Trong số những bệnh nhân tham gia nghiên cứu kéo dài, tỷ lệ bệnh nhân vẫn không sử dụng corticosteroid đã được duy trì qua tuần 216.
Bệnh nhân không đạt được đáp ứng lâm sàng tại tuần 6 trong nghiên cứu PURSUIT-Dẫn nhập được cho dùng SIMPONI 100 mg mỗi 4 tuần trong nghiên cứu PURSUIT-Duy trì. Tại tuần 14, 28% số bệnh nhân này đã đạt được đáp ứng được xác định bởi điểm số Mayo (giảm ≥ 3 điểm so với thời điểm bắt đầu giai đoạn dẫn nhập). Tại tuần 54, kết quả lâm sàng quan sát thấy ở những bệnh nhân này là tương tự với kết quả lâm sàng được báo cáo ở những bệnh nhân đạt đáp ứng lâm sàng tại tuần 6.
Tại tuần 6, SIMPONI đã cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống được đánh giá qua sự thay đổi IBDQ so với ban đầu (IBDQ là bộ câu hỏi đánh giá chuyên biệt về bệnh viêm đường ruột). Trong số những bệnh nhân dùng SIMPONI trong giai đoạn điều trị duy trì, cải thiện chất lượng cuộc sống được xác định bởi IBDQ vẫn duy trì đến tuần 54.
Khoảng 63% bệnh nhân sử dụng SIMPONI tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu kéo dài (tuần 56), vẫn còn điều trị qua thời điểm kết thúc nghiên cứu (sử dụng golimumab lần cuối ở tuần 212).
Tính sinh miễn dịch
Trong tất cả các nghiên cứu giai đoạn III trên RA, PsA và AS đến hết tuần 52, các kháng thể kháng golimumab được phát hiện bằng phương pháp miễn dịch enzyme (EIA) ở 5% (105/2062) bệnh nhân được điều trị với golimumab và in vitro hầu như tất cả các kháng thể đều là kháng thể trung hòa. Các tỷ lệ tương tự cũng được thấy trong tất các chỉ định của bệnh khớp. Điều trị phối hợp với MTX dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng golimumab thấp hơn so với nhóm dùng golimumab không kèm theo MTX (khoảng 3% [41/1235] so với 8% [64/827], tương ứng).
Kháng thể kháng golimumab được phát hiện ở 7% (14/193) bệnh nhân bị nr-Axial SpA được điều trị với golimumab đến tuần 52 bằng phương pháp EIA.
Trong các nghiên cứu giai đoạn II và III trên viêm loét đại tràng cho đến hết tuần 54, các kháng thể kháng golimumab được phát hiện bằng phương pháp EIA ở 3% (26/946) bệnh nhân dùng golimumab. 68% (21/31) bệnh nhân có kháng thể dương tính đã có kháng thể trung hòa in vitro. Việc điều trị đồng thời với các thuốc điều hòa miễn dịch (azathioprine, 6-mercaptopurine và MTX) dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng golimumab thấp hơn so với nhóm dùng golimumab không kèm theo thuốc điều hòa miễn dịch (1% (4/308) so với 3% (22/638), tương ứng). Trong số những bệnh nhân tiếp tục điều trị trong nghiên cứu kéo dài và đã có các mẫu có thể đánh giá được qua tuần 228, các kháng thể kháng golimumab đã được phát hiện ở 4% (23/604) những bệnh nhân điều trị bằng golimumab. 82% (18/22) số bệnh nhân dương tính với kháng thể đã có kháng thể trung hòa in vitro.
Phương pháp EIA dung nạp thuốc đã được sử dụng trong nghiên cứu pJIA cho việc phát hiện kháng thể kháng golimumab. Do độ nhạy cao hơn và sự dung nạp thuốc được cải thiện, dự kiến tỷ lệ kháng thể kháng golimumab phát hiện với phương pháp EIA dung nạp thuốc cao hơn khi so sánh với phương pháp EIA. Trong nghiên cứu pJIA pha III qua tuần 48, các kháng thể kháng golimumab đã được phát hiện bởi phương pháp EIA dung nạp thuốc ở 40% (69/172) trẻ em được điều trị bằng golimumab trong đó đa số có hiệu giá nhỏ hơn 1:1000. Ảnh hưởng đến nồng độ golimumab trong huyết thanh đã quan sát được ở mức độ hiệu giá >1:100 trong khi ảnh hưởng về hiệu quả không quan sát thấy cho đến khi ở mức độ hiệu giá >1:1000, thế nhưng số lượng trẻ em có mức độ hiệu giá >1:1000 là thấp (N=8). Trong số trẻ được thử nghiệm dương tính với các kháng thể kháng golimumab, 39% (25/65) đã có kháng thể trung hòa. Kháng thể kháng golimumab có tỷ lệ cao hơn với phương pháp EIA dung nạp thuốc bởi vì chúng chủ yếu là các kháng thể có nồng độ thấp, không có ảnh hưởng rõ ràng đến nồng độ thuốc, hiệu quả và an toàn và vì vậy không thể hiện bất kỳ dấu hiệu liên quan an toàn mới nào.
Sự xuất hiện các kháng thể kháng golimumab có thể làm tăng nguy cơ phản ứng tại vị trí tiêm (xem mục Cảnh báo và thận trọng). Số lượng bệnh nhân có kháng thể kháng golimumab dương tính không nhiều nên hạn chế khả năng đưa ra kết luận rõ ràng về mối quan hệ giữa các kháng thể kháng golimumab và hiệu quả hoặc tính an toàn của thuốc trên lâm sàng.
Các phân tích về tính sinh miễn dịch đặc thù theo sản phẩm và loại xét nghiệm nên việc so sánh tỷ lệ sinh kháng thể khi dùng thuốc này so với các sản phẩm khác là không phù hợp.
Quần thể bệnh nhân nhi
Viêm đa khớp tự phát thiếu niên
An toàn và hiệu quả của SIMPONI đã được đánh giá ở một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đối chứng với giả dược, có giai đoạn ngừng thuốc (GO-KIDS) trên 173 trẻ em (2 đến 17 tuổi) với pJIA hoạt động với tối thiểu 5 khớp hoạt động và đáp ứng không đầy đủ với MTX. Trẻ có viêm đa khớp tự phát JIA (viêm đa khớp với yếu tố thấp âm tính hoặc dương tính, viêm ít khớp (oligoarthritis) kéo dài, viêm khớp vẩy nến thiếu niên hoặc JIA toàn thân không có triệu chứng toàn thân hiện tại) được bao gồm trong nghiên cứu này. Trung vị số khớp hoạt động ban đầu là 12, và trung vị CRP là 0,17 mg/dL.
Phần 1 của nghiên cứu bao gồm một pha nhãn mở 16 tuần trong đó có 173 trẻ sử dụng SIMPONI 30 mg/m2 (tối đa 50 mg) tiêm dưới da mỗi 4 tuần và MTX. 154 trẻ đạt được đáp ứng ACR Ped 30 tại tuần 16 được đưa vào Phần 2 của nghiên cứu, pha ngừng thuốc ngẫu nhiên, và sử dụng SIMPONI 30 mg/m2 (tối đa 50 mg) + MTX, hoặc sử dụng giả dược + MTX mỗi 4 tuần. Nếu xuất hiện triệu chứng bệnh, trẻ được điều trị với SIMPONI 30 mg/m2 (tối đa 50 mg) + MTX. Tại tuần 48, trẻ tham gia vào một nghiên cứu mở rộng dài hạn.
Trẻ em trong nghiên cứu này đã chứng minh các đáp ứng ACR Ped 30, 50, 70, và 90 sớm vào tuần 4.
Ở tuần 16, 87% trẻ có đáp ứng ACR Ped 30, và 79%, 66%, và 36% số trẻ lần lượt có đáp ứng ACR Ped 50, ACR Ped 70 và ACR Ped 90. Ở tuần 16, 34% số trẻ có bệnh không hoạt động được định nghĩa là có tất cả các yếu tố sau: không có khớp viêm hoạt động; không sốt, phát ban, viêm thanh mạc, lách to, gan to hay bệnh hạch bạch huyết nói chung do JIA; không có viêm màng bồ đào hoạt động; ESR bình thường (<20 mm/giờ) hoặc CRP (<1,0 mg/dL); đánh giá của bác sỹ tổng thể về hoạt động của bệnh (≤ 5 mm trên VAS); thời gian cứng khớp buổi sáng là < 15 phút.
Ở tuần 16, tất cả thành phần ACR Ped đã chứng minh sự cải thiện có liên quan lâm sàng so với ban đầu.
- xem Bảng 7.

Tiêu chí chính, tỷ lệ trẻ có đáp ứng ACR Ped 30 tại tuần 16 và không trải qua một đợt cấp giữa tuần 16 và tuần 48, đã không đạt được. Phần lớn trẻ em đã không trải qua đợt cấp giữa tuần 16 và tuần 48 (59% ở nhóm SIMPONI + MTX và 53% ở nhóm giả dược + MTX, tương ứng; p = 0,41).
Các phân tích dưới nhóm được xác định trước của tiêu chí chính về CRP ban đầu (≥ 1 mg/dL so với < 1 mg/dL) đã chứng minh ở những bệnh nhân có CRP ban đầu ≥ 1 mg/dL, tỷ lệ bùng phát bệnh cao hơn ở nhóm giả dược + MTX so với SIMPONI + MTX (87% so với 40% p = 0,0068).
Ở tuần 48, 53% số trẻ ở nhóm SIMPONI + MTX và 55% số trẻ ở nhóm giả dược + MTX có đáp ứng ACR Ped 30, và 40% số trẻ ở nhóm SIMPONI + MTX và 28% số trẻ ở nhóm giả dược + MTX đạt được bệnh không hoạt động.
Quần thể bệnh nhân nhi
Cơ quan Dược phẩm Châu Âu đã cho trì hoãn việc nộp kết quả nghiên cứu của SIMPONI trên một hoặc nhiều phân nhóm bệnh nhân nhi bị viêm loét đại tràng (xem mục Liều lượng và cách dùng về thông tin cho sử dụng thuốc ở trẻ em).
Đặc tính dược động học
Hấp thu
Sau khi tiêm dưới da golimumab liều đơn cho đối tượng khỏe mạnh hoặc bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp, trung vị thời gian đạt nồng độ tối đa trong huyết thanh (Tmax) dao động từ 2 đến 6 ngày. Tiêm dưới da 50 mg golimumab cho đối tượng khỏe mạnh đã tạo nồng độ tối đa (Cmax) trong huyết thanh với giá trị trung bình ± SD là 3,1±1,4 mcg/mL.
Sau khi tiêm dưới da liều đơn 100 mg, sự hấp thu golimumab là tương tự nhau khi tiêm ở vị trí cánh tay, bụng, và đùi, với sinh khả dụng tuyệt đối trung bình là 51%. Do golimumab có dược động học hầu như phụ thuộc liều sau khi tiêm dưới da, sinh khả dụng tuyệt đối của liều golimumab 50 mg hoặc 200 mg được cho là tương tự như liều 100 mg.
Phân bố
Thể tích phân bố trung bình của SIMPONI là 115±19 mL/kg sau khi tiêm tĩnh mạch 1 liều đơn.
Thải trừ
Độ thanh thải toàn thân của golimumab được ước tính là 6,9±2,0 mL/ngày/kg. Thời gian bán thải cuối cùng được ước tính xấp xỉ 12±3 ngày ở người khoẻ mạnh và cũng quan sát thấy giá trị tương tự ở bệnh nhân bị RA, PsA, AS hoặc UC.
Khi tiêm dưới da 50 mg golimumab cho bệnh nhân bị RA, PsA hoặc AS mỗi 4 tuần, nồng độ huyết thanh đạt trạng thái ổn định tại tuần 12. Sử dụng đồng thời với MTX, điều trị golimumab 50 mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần có nồng độ đáy trung bình (± độ lệch chuẩn) trong huyết thanh ở trạng thái ổn định xấp xỉ 0,6±0,4 mcg/mL ở bệnh nhân bị RA thể hoạt động dù đang dùng MTX, và khoảng 0,5±0,4 mcg/mL ở bệnh nhân bị PsA thể hoạt động và khoảng 0,8±0,4 mcg/mL ở bệnh nhân bị AS. Nồng độ đáy trung bình trong huyết thanh ở trạng thái ổn định của golimumab trên bệnh nhân có nr-Axial SpA cũng có giá trị tương tự như ở bệnh nhân bị AS khi dùng chế độ liều 50 mg golimumab tiêm dưới da mỗi 4 tuần.
Bệnh nhân bị RA, PsA hoặc AS không dùng MTX đồng thời đã có nồng độ đáy của golimumab ở trạng thái ổn định thấp hơn khoảng 30% so với bệnh nhân dùng golimumab cùng lúc với MTX. Trong một số lượng bệnh nhân hạn chế bị RA được tiêm golimumab dưới da kéo dài 6 tháng, sử dụng đồng thời MTX đã làm giảm khoảng 36% độ thanh thải biểu kiến của golimumab. Tuy nhiên, phân tích dược động học trong quần thể đã cho thấy việc sử dụng đồng thời với các thuốc NSAID, corticosteroid dạng uống hoặc sulfasalazine không gây ảnh hưởng đến độ thanh thải biểu kiến của golimumab.
Sau các liều dẫn nhập golimumab 200 mg và 100 mg tại tuần 0 và tuần 2 tương ứng, và liều duy trì golimumab 50 mg hoặc 100 mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần sau đó cho bệnh nhân có viêm loét đại tràng, nồng độ golimumab huyết thanh đạt trạng thái ổn định khoảng 14 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Điều trị golimumab liều 50 mg hoặc 100 mg tiêm dưới da mỗi 4 tuần trong giai đoạn duy trì đã dẫn đến nồng độ đáy trung bình trong huyết thanh ở trạng thái ổn định, lần lượt khoảng 0,9±0,5 mcg/mLvà 1,8±1,1 mcg/mL.
Sử dụng đồng thời các thuốc điều hòa miễn dịch không gây tác động đáng kể lên nồng độ đáy của golimumab ở trạng thái ổn định trong nhóm bệnh nhân có viêm loét đại tràng được tiêm golimumab dưới da liều 50 mg hoặc 100 mg mỗi 4 tuần.
Những bệnh nhân phát sinh kháng thể kháng golimumab thường có nồng độ đáy của golimumab trong huyết thanh ở trạng thái ổn định thấp (xem mục Đặc tính dược lực học).
Độ tuyến tính với liều dùng
Golimumab có dược động học tỷ lệ thuận với liều dùng khi tiêm 1 liều tĩnh mạch duy nhất trong khoảng liều từ 0,1 đến 10,0 mg/kg ở bệnh nhân bị RA. Dược động học theo liều dùng cũng được ghi nhận sau khi tiêm một liều duy nhất dưới da trong giới hạn 50 mg-400 mg ở người khỏe mạnh.
Ảnh hưởng của thể trọng lên dược động học
Độ thanh thải biểu kiến của golimumab được ghi nhận có xu hướng gia tăng theo thể trọng (xem mục Liều lượng và Cách dùng).
Quần thể bệnh nhân nhi
Dược động học của golimumab được xác định trên 173 trẻ bị pJIA với khoảng tuổi từ 2 đến 17 tuổi. Trong nghiên cứu pJIA, trẻ được sử dụng golimumab 30 mg/m2 (tối đa 50 mg) tiêm dưới da mỗi 4 tuần, đã có trung vị nồng độ đáy golimumab trạng thái ổn định tương tự các nhóm tuổi khác, và cũng tương tự hoặc cao hơn một chút so với những bệnh nhân RA người lớn sử dụng golimumab 50 mg mỗi 4 tuần.
Mô hình và sự mô phỏng đặc tính dược lực học và dược động học ở trẻ em bị pJIA đã xác nhận mối quan hệ giữa nồng độ trong huyết thanh của golimumab với hiệu quả lâm sàng và ủng hộ rằng chế độ liều 50 mg golimumab mỗi 4 tuần ở trẻ bị pJIA thể trọng tối thiểu 40 kg đạt được hiệu quả tương tự ở người lớn.
Dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Dữ liệu phi lâm sàng cho thấy không có tác hại đặc biệt cho người dựa vào các nghiên cứu quy ước về dược an toàn, độc tính dùng liều lặp lại, độc tính trên khả năng sinh sản và sự phát triển.
Chưa thực hiện các nghiên cứu về khả năng gây đột biến gen, khả năng sinh sản trên động vật cũng như khả năng gây ung thư khi dùng golimumab lâu dài.
Số lượng chuột cái mang thai đã giảm trong một nghiên cứu về khả năng sinh sản và chức năng sinh sản nói chung được tiến hành trên chuột nhắt, bằng cách sử dụng kháng thể tương tự có tác dụng ức chế chọn lọc hoạt động chức năng của TNFα ở chuột nhắt. Vẫn chưa biết rõ liệu phát hiện này là do tác động của thuốc lên chuột đực và/hoặc chuột cái. Không ghi nhận dấu hiệu nào về độc tính cho mẹ, độc tính cho phôi thai hoặc gây quái thai trong một nghiên cứu về độc tính trên sự phát triển ở chuột nhắt bằng cách tiêm cùng loại kháng thể tương tự này, và ở khỉ đuôi dài dùng golimumab.