Các đặc tính dược lực học
Nhóm dược lý trị liệu: Thuốc điều trị đái tháo đường. Insulin và insulin analogues dạng tiêm, tác dụng kéo dài.
Mã ATC: A10AE06
Cơ chế tác dụng
Insulin degludec gắn kết chuyên biệt với thụ thể insulin người và có các tác dụng dược lý tương tự như insulin người.
Hiệu quả làm giảm glucose huyết của insulin là do làm cho sự hấp thu glucose dễ dàng hơn sau khi insulin gắn kết vào các thụ thể trên tế bào cơ và tế bào mỡ, đồng thời ức chế sản xuất glucose từ gan.
Tác dụng dược lực học
Tresiba là một insulin nền tác dụng kéo dài tạo thành đa lục phân (hexamer) hòa tan khi tiêm dưới da, dẫn đến một kho dự trữ từ đó insulin degludec được hấp thu liên tục và từ từ vào tuần hoàn, đưa đến tác dụng làm giảm glucose kéo dài bằng phẳng và ổn định của Tresiba (xem Hình 1). Trong thời gian 24 giờ với điều trị 1 lần/ngày, tác dụng làm giảm glucose của Tresiba, ngược lại với insulin glargine, được phân bố đều từ 12 giờ đầu tiên và 12 giờ thứ hai (AUC
GIR,0-12giờ,SS/AUC
GIR,tổng,SS = 0,5).
- xem Hình 1.

Thời gian tác dụng của Tresiba là hơn 42 giờ trong phạm vi liều điều trị. Trạng thái ổn định sẽ xảy ra sau 2-3 ngày dùng thuốc.
Tác dụng làm giảm glucose của insulin degludec ở trạng thái ổn định cho thấy sự biến đổi về hệ số biến thiên (CV) từ ngày này qua ngày khác thấp hơn 4 lần về tác dụng làm giảm glucose trong thời gian từ 0-24 giờ (AUC
GIR,τ,SS) và 2-24 giờ (AUC
GIR,2-24giờ,SS) khi so với insulin glargine.
- xem Bảng 1.

Tác dụng làm giảm glucose của Tresiba tăng tuyến tính với liều dùng tăng.
Tác dụng làm giảm glucose toàn bộ là tương đương đối với Tresiba 100 đơn vị/mL và 200 đơn vị/mL sau khi dùng liều tương tự của cả hai chế phẩm.
Không có sự khác biệt về tác dụng dược lực học của Tresiba giữa bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân người lớn trẻ tuổi.
Hiệu quả và độ an toàn trên lâm sàng
11 thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm trong thời gian 26 tuần hoặc 52 tuần đã được tiến hành dưới dạng thử nghiệm có đối chứng, nhãn mở, song song, điều trị nhắm đến mục tiêu bao gồm 4.275 bệnh nhân được cho sử dụng Tresiba (1.102 bệnh nhân đái tháo đường típ 1 và 3.173 bệnh nhân đái tháo đường típ 2).
Trong một thử nghiệm nhãn mở, hiệu quả của Tresiba đã được thử nghiệm ở bệnh nhân đái tháo đường típ 1 (Bảng 3), ở bệnh nhân chưa điều trị insulin (insulin khởi đầu ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, Bảng 4) và ở bệnh nhân đã điều trị insulin trước đây (insulin tăng cường ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, Bảng 5) với thời gian dùng thuốc cố định cũng như linh hoạt (Bảng 6) và mức giảm HbA
1c từ lúc ban đầu đến kết thúc thử nghiệm đã được xác định là không thua kém ở tất cả các thử nghiệm so với tất cả các thuốc so sánh (insulin detemir và insulin glargine (100 đơn vị/mL)). Trong khi sự cải thiện HbA
1c không thua kém so với các chế phẩm insulin khác, còn so với sitagliptin Tresiba làm giảm HbA
1c trội hơn có ý nghĩa thống kê (Bảng 5).
Ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, một thử nghiệm lâm sàng nhắm đến mục tiêu đối với khởi đầu điều trị bằng insulin đã cho thấy một tỷ lệ thấp hơn về hạ đường huyết ban đêm đã được xác nhận với liều Tresiba 1 lần/ngày là 36% so với insulin glargine, cả hai phối hợp với các thuốc đái tháo đường dạng uống (OAD) (Hình 2). Trong một thử nghiệm nhắm đến mục tiêu, đánh giá chế độ điều trị nền-nhanh ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, Tresiba đã cho thấy giảm nguy cơ tổng thể về cơn hạ đường huyết cũng như cơn hạ đường huyết về ban đêm so với insulin glargine (Hình 3). Cơn hạ đường huyết được ghi nhận được định nghĩa là các cơn được ghi định bằng nồng độ glucose huyết tương < 3,1 mmol/L hoặc bệnh nhân cần có sự hỗ trợ của bên thứ ba. Cơn hạ đường huyết về ban đêm được ghi nhận được định nghĩa là các cơn từ lúc nửa đêm đến 6 giờ sáng.
- xem Hình 2 và 3.

Trong một phân tích tổng hợp về 7 thử nghiệm nhãn mở xác nhận việc điều trị nhắm đến mục tiêu, được lập kế hoạch theo thời gian ở bệnh nhân đái tháo đường típ 1 và típ 2, Tresiba trội hơn về số lượng các cơn hạ đường huyết thấp hơn đã được xác nhận là xuất hiện trong điều trị (dựa theo lợi ích ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2, xem Bảng 2) và các cơn hạ đường huyết được xác định xảy ra về ban đêm so với insulin glargine (100 đơn vị/mL) (được sử dụng theo nhãn). Sự giảm hạ đường huyết đạt được ở nồng độ glucose huyết tương lúc đói trung bình thấp hơn với Tresiba so với insulin glargine.
- xem Bảng 2.

Không có sự phát triển kháng thể kháng insulin có ý nghĩa lâm sàng sau khi điều trị dài hạn bằng Tresiba.
- xem Bảng 3, 4, 5 và 6.

Trong một nghiên cứu lâm sàng 104 tuần, 57% bệnh nhân đái tháo đường típ 2 được điều trị bằng Tresiba (insulin degludec) phối hợp với metformin đã đạt được mục tiêu HbA
1c < 7,0%, và những bệnh nhân còn lại trong một thử nghiệm nhãn mở 26 tuần được ngẫu nhiên sử dụng thêm liraglutide hoặc một liều đơn insulin aspart (dùng kèm bữa ăn chính). Ở những bệnh nhân sử dụng insulin degludec + liraglutide, liều của insulin được giảm đi 20% để giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết. Sử dụng thêm liraglutide đã cho thấy giảm chỉ số HbA
1c đáng kể có ý nghĩa thống kê (ước tính giảm 0,73% khi dùng liraglutide so với giảm 0,04% khi dùng thuốc đối chứng) và trọng lượng cơ thể (ước tính giảm 3,03 kg khi dùng liraglutide so với giảm 0,72 kg khi dùng thuốc đối chứng). Tỷ lệ triệu chứng hạ đường huyết (trên mỗi năm sử dụng) thấp hơn có ý nghĩa thống kê khi dùng thêm liraglutide so với khi dùng thêm liều đơn insulin aspart (1,0 so với 8,15; tỷ lệ: 0,13; 95% CI: 0,08 đến 0,21).
Hơn nữa, trong 2 thử nghiệm điều trị theo mục tiêu, chéo, ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng trong 64 tuần được thực hiện ở những bệnh nhân có ít nhất một yếu tố nguy cơ hạ đường huyết và đái tháo đường típ 1 (501 bệnh nhân) hoặc đái tháo đường típ 2 (721 bệnh nhân). Bệnh nhân ngẫu nhiên được sử dụng Tresiba hoặc insulin glargine (100 đơn vị/mL) sau đó sẽ đổi chéo với nhau. Nghiên cứu đánh giá tỷ lệ hạ đường huyết khi sử dụng Tresiba so với sử dụng insulin glargine (100 đơn vị/mL).
- xem Bảng 7.
Đánh giá tim mạch
DEVOTE là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi và đánh giá tần suất biến cố với khoảng thời gian trung vị là 2 năm nhằm so sánh độ an toàn trên tim mạch của Tresiba với insulin glargine (100 U/mL) trên 7.637 bệnh nhân bị đái tháo đường có nguy cơ cao bị các biến cố tim mạch.
Mục tiêu phân tích chính của nghiên cứu là thời gian khởi phát biến cố tim mạch nghiêm trọng (MACE) đầu tiên tính từ lúc bệnh nhân được phân bố ngẫu nhiên. Các biến cố này bao gồm tử vong do nguyên nhân tim mạch, nhồi máu cơ tim không gây tử vong hoặc đột quỵ không gây tử vong. Nghiên cứu được thiết kế chứng minh tính không kém hơn của Tresiba so với insulin glargine nhằm loại trừ khả năng tỉ số nguy cơ (hazard ratio) của MACE đạt 1,3 (xác định giới hạn trên của biên độ nguy cơ).
Tính an toàn trên tim mạch của Tresiba so với insulin glargine đã được xác nhận (HR 0,91 [0,78;1,06]) (Hình 2).
Kết quả của các phân tích dưới nhóm (ví dụ: giới tính, thời gian mắc ĐTĐ, nguy cơ tim mạch và phác đồ điều trị insulin) cũng đồng thuận với kết quả của phân tích chính nêu trên.
- xem Hình 4.

Tại thời điểm ban đầu, HbA
1c là 8,4% ở cả hai nhóm điều trị và sau 2 năm HbA
1c là 7,5% đối với cả Tresiba và insulin glargine.
Tresiba vượt trội hơn so với insulin glargine trong việc giảm tỉ lệ các cơn hạ đường huyết nghiêm trọng cũng như giảm tỉ lệ bệnh nhân có cơn hạ đường huyết nghiêm trọng. Tỉ lệ hạ đường huyết ban đêm cũng thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân sử dụng Tresiba so với nhóm sử dụng insulin glargine.
- xem Bảng 8.
Ở bệnh nhân nhi
Hiệu quả và độ an toàn của Tresiba đã được nghiên cứu trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên 1:1 ở bệnh nhân nhi và bệnh nhân thanh thiếu niên đái tháo đường típ 1 trong thời gian 26 tuần (n=30), và tiếp theo đó là một giai đoạn kéo dài 26 tuần nữa (n=280). Bệnh nhân sử dụng Tresiba bao gồm 43 bệnh nhân nhi ở độ tuổi từ 1 đến 5, 70 bệnh nhân nhi từ 6-11 tuổi và 61 bệnh nhân thanh thiếu niên tuổi từ 12 đến 17. Liều Tresiba ngày 1 lần cho thấy việc giảm HbA
1c ở tuần thứ 52 và giảm nhiều hơn ở FPG so với nhóm chứng insulin detemir liều ngày 1 hoặc 2 lần. Điều này đạt được khi dùng liều Tresiba hàng ngày thấp hơn 30% so với dùng insulin detemir. Khi so sánh giữa Tresiba và insulin detemir thì tỷ lệ hạ đường huyết nghiêm trọng (số lần xảy ra trên một bệnh nhân-năm sử dụng) (theo định nghĩa của ISPAD: 0,51 so với 0,33); hạ đường huyết được ghi nhận (57,71 so với 54,05) và hạ đường huyết về ban đêm được ghi nhận (6,03 so với 7,60). Ở cả hai liệu pháp điều trị, trẻ em tuổi từ 6 đến 11 có tỷ lệ hạ đường huyết được ghi nhận cao hơn về số lượng so với các nhóm tuổi khác. Tỷ lệ hạ đường huyết nghiêm trọng ở nhóm trẻ em tuổi từ 6 đến 11 là cao hơn về số lượng khi điều trị bằng Tresiba đã được quan sát. Tỷ lệ hạ đường huyết kèm nhiễm toan ceton là thấp hơn đáng kể khi dùng Tresiba so với dùng insulin detemir, 0,68 so với 1,09. Tần suất, loại và mức độ nghiêm trọng của các tác dụng không mong muốn ở nhóm tuổi trẻ em không đưa ra được sự khác biệt để thành kinh nghiệm sử dụng cho nhóm tuổi này. Sự phát triển kháng thể rải rác và không ảnh hưởng đến lâm sàng. Hiệu quả và độ an toàn cho bệnh nhân là thanh thiếu niên đái tháo đường típ 2 được ngoại suy từ dữ liệu của bệnh nhân thanh thiếu niên và người lớn đái tháo đường típ 1 và người lớn đái tháo đường típ 2. Những kết quả này hỗ trợ cho việc sử dụng Tresiba ở bệnh nhân là thanh thiếu niên đái tháo đường típ 2.
Các đặc tính dược động học
Hấp thu
Sau khi tiêm dưới da, các đa lục phân (hexamer) hòa tan và ổn định được hình thành, tạo ra một kho dự trữ insulin ở mô dưới da. Các đơn phân (monomer) của insulin degludec tách ra dần dần từ các đa lục phân (hexamer) này, do đó dẫn đến phân phối insulin degludec chậm và liên tục vào tuần hoàn.
Nồng độ thuốc trong huyết thanh ở trạng thái ổn định đạt được sau 2-3 ngày tiêm Tresiba. Trong thời gian 24 giờ điều trị 1 lần/ngày, mức tiếp xúc insulin degludec được phân bố đều từ 12 giờ đầu đến 12 giờ sau. Tỷ lệ giữa AUC
GIR,0-12giờ,SS và AUC
GIR,τ,SS là 0,5.
Phân bố
Ái lực của insulin degludec với albumin huyết thanh tương ứng với sự gắn kết protein huyết tương > 99% trong huyết tương người.
Biến đổi sinh học
Sự thoái biến của insulin degludec tương tự như với insulin người; tất cả các chất chuyển hóa được tạo thành đều không có hoạt tính.
Thải trừ
Thời gian bán thải sau khi tiêm Tresiba dưới da được xác định bởi tốc độ hấp thu từ mô dưới da. Thời gian bán thải khoảng 25 giờ không phụ thuộc liều dùng.
Sự tuyến tính
Mức tiếp xúc toàn bộ tỷ lệ với liều dùng được quan sát thấy sau khi tiêm dưới da trong phạm vi liều điều trị. Khi so sánh trực tiếp, yêu cầu về tương đương sinh học được đáp ứng đối với Tresiba 100 đơn vị/mL và Tresiba 200 đơn vị/mL (dựa trên AUC
IDeg,τ,SS và C
max, IDeg,SS).
Giới tính
Không có sự khác biệt về giới tính đối với các đặc tính dược động học của Tresiba.
Người cao tuổi, chủng tộc, suy thận và suy gan
Không có sự khác biệt về dược động học của insulin degludec giữa bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân người lớn trẻ tuổi, giữa các chủng tộc hoặc giữa bệnh nhân khỏe mạnh và bệnh nhân suy thận hoặc suy gan.
Nhóm bệnh nhân trẻ em
Các đặc tính dược động học của insulin degludec đã được nghiên cứu ở trẻ em (1-11 tuổi) và thiếu niên (12-18 tuổi) và tương đương với các đặc tính dược động học quan sát được ở người lớn bị đái tháo đường típ 1. Tuy nhiên, mức tiếp xúc toàn bộ sau khi dùng một liều đơn cao hơn ở trẻ em và thiếu niên so với ở người lớn bị đái tháo đường típ 1.
Các dữ liệu an toàn tiền lâm sàng
Các dữ liệu tiền lâm sàng cho thấy không có những mối lo ngại về an toàn đối với người dựa trên các nghiên cứu về dược lý an toàn, độc tính liều nhắc lại, khả năng gây ung thư hoặc độc tính đối với sinh sản.
Tỷ lệ giữa khả năng gây phân bào và khả năng chuyển hóa đối với insulin degludec tương đương với insulin người.