Dược lực học
Mã ATC
Nhóm dược trị liệu: Các tác nhân chống ung thư - Tác nhân ức chế men Protein kinase, mã ATC: L01XE11.
Cơ chế tác dụng
VOTRIENT được sử dụng theo đường uống, là tác nhân ức chế hiệu quả men tyrosine kinase (TKI) tại nhiều điểm đích của các thụ thể yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu (VEGFR)-1, -2, và -3, yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (PDGFR)-α và -β, và thụ thể yếu tố tế bào gốc (c-KIT), với các giá trị IC
50 lần lượt tương ứng là 10, 30, 47, 71, 84 và 74nM. Trong các thử nghiệm tiền lâm sàng, pazopanib ức chế một cách phụ thuộc vào liều dùng trên quá trình phosphoryl hóa tự động cảm ứng bởi các gốc kết hợp trên các thụ thể VEGFR-2, c-Kit và PDGFR-β trong các tế bào.
In vivo, pazopanib ức chế quá trình phosphoryl hóa VEGFR-2 cảm ứng bởi VEGF ở phổi chuột nhắt, sự hình thành mạch ở nhiều mô hình thử trên các loài động vật khác nhau, và sự tăng trưởng của khối u từ người được ghép dị chủng trên chuột nhắt.
Dược động học
Trong một phân tích di truyền - dược học tổng hợp từ 31 nghiên cứu lâm sàng về VOTRIENT sử dụng đơn độc hay phối hợp với các thuốc khác, ALT >5 lần ULN (NCI CTC mức 3) xảy ra ở 19% các bệnh nhân mang allel
HLA-B*57:01 và 10% với các bệnh nhân không mang allel này. Trong dữ liệu này, 133/2235 (6%) các bệnh nhân mang allel
HLA-B*57:01 (xem
Cảnh báo và thận trọng).
Hấp thu: Sau khi dùng đường uống liều đơn VOTRIENT 800mg cho những bệnh nhân có các khối u đặc, trung vị thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương (C
max) khoảng 19±13 µg/ml là 3,5 giờ (khoảng 1,0-11,9 giờ) và đạt được AUC
0-∞ khoảng 650±500 µg.giờ/ml. Liều dùng hàng ngày làm tăng AUC
0-T từ 1,23 đến 4 lần.
AUC và C
max không tăng nhất quán khi tăng liều dùng VOTRIENT trên 800mg.
Phơi nhiễm toàn thân đối với pazopanib tăng lên khi uống thuốc cùng với thức ăn. Sử dụng VOTRIENT cùng với bữa ăn nhiều hoặc ít chất béo dẫn đến làm tăng giá trị AUC và C
max lên khoảng 2 lần. Vì thế, VOTRIENT phải được sử dụng ít nhất 2 giờ sau bữa ăn hoặc 1 giờ trước bữa ăn (xem phần
Liều lượng và Cách dùng).
Uống một liều viên nén VOTRIENT 400mg đã được nghiền nát làm tăng AUC
(0-72) thêm 46% và tăng C
max khoảng gấp 2 lần và làm giảm t
max khoảng 2 giờ so với uống nguyên cả viên nén. Kết quả này cho thấy sinh khả dụng và tỉ lệ hấp thu pazopanib theo đường uống tăng lên khi uống viên nén đã được nghiền so với uống nguyên cả viên nén (xem phần
Liều lượng và Cách dùng).
Phân bố: In vivo, pazopanib gắn với protein huyết tương của người trên 99% không phụ thuộc nồng độ trong khoảng 10-100 μg/mL. Các nghiên cứu
in vitro gợi ý rằng pazopanib là cơ chất của P-gp và BCRP.
Chuyển hóa: Các kết quả từ các nghiên cứu
in vitro cho thấy rằng quá trình chuyển hóa của pazopanib chủ yếu qua trung gian CYP3A4, và một phần nhỏ qua CYP1A2 và CYP2C8. Bốn chất chuyển hóa gốc của pazopanib chỉ chiếm 6% phơi nhiễm trong huyết tương. Một trong số các chất chuyển hóa này ức chế sự phát triển của các tế bào nội mô tĩnh mạch rốn người được VEGF kích hoạt với cùng hiệu lực như pazopanib, các chất chuyển hóa khác có hoạt tính kém hơn 10-20 lần. Vì thế, tác dụng của pazopanib phụ thuộc chủ yếu vào phơi nhiễm với pazopanib gốc.
Thải trừ: Pazopanib được thải trừ chậm với thời gian bán thải trung bình là 30,9 giờ sau khi sử dụng liều khuyến cáo 800mg. Thuốc thải trừ chủ yếu qua phân với thải trừ qua thận chiếm < 4% của liều đã sử dụng.
Các đối tượng đặc biệt
Suy thận: Các kết quả cho thấy dưới 4% liều uống pazopanib được thải trừ trong nước tiểu dưới dạng pazopanib và chất chuyển hóa. Các kết quả từ mô hình dược động học quần thể (dữ liệu từ các đối tượng có các giá trị CLCR ban đầu khoảng từ 30,8 mL/phút đến 150 mL/phút) cho thấy rằng suy thận dường như không có ảnh hưởng liên quan trên lâm sàng về dược động học của pazopanib. Không cần chỉnh liều cho bệnh nhân có độ thanh thải creatinine trên 30 mL/phút. Nên thận trọng với những bệnh nhân có độ thanh thải creatinine dưới 30 mL/phút do không có kinh nghiệm sử dụng pazopanib ở nhóm bệnh nhân này (xem phần
Liều lượng và Cách dùng).
Suy gan
+ Nhẹ: Trung vị C
max và AUC
(0-24) của pazopanib ở trạng thái ổn định trên bệnh nhân có bất thường nhẹ các thông số về gan (được định nghĩa là hoặc bilirubin bình thường và tăng ALT ở bất kỳ mức độ nào hoặc tăng bilirubin tới 1,5 lần ULN bất kể các giá trị ALT) sau khi dùng 800mg một lần mỗi ngày là tương tự với giá trị trung vị ở bệnh nhân có chức năng gan bình thường (xem Bảng 1). 800mg VOTRIENT một lần mỗi ngày là liều khuyến cáo cho những bệnh nhân bất thường nhẹ về các xét nghiệm huyết thanh đánh giá chức năng gan (xem mục
Liều lượng và Cách dùng).
+ Trung bình: Liều dung nạp tối đa (MTD) của pazopanib ở bệnh nhân suy gan vừa (được định nghĩa là tăng bilirubin >1,5 đến 3 lần ULN bất kể các giá trị ALT) là 200mg một lần mỗi ngày. Các giá trị trung vị AUC
(0-24) và C
max ở trạng thái ổn định sau khi dùng 200mg pazopanib một lần mỗi ngày trên bệnh nhân suy gan vừa là khoảng 44% và 39% các giá trị trung vị tương ứng sau khi dùng 800mg một lần mỗi ngày ở bệnh nhân có chức năng gan bình thường (xem Bảng 1).
Dựa trên dữ liệu an toàn và tính dung nạp, nên giảm liều pazopanib tới 200mg một lần mỗi ngày ở các đối tượng suy gan vừa (xem mục
Liều lượng và Cách dùng).
+ Nặng: Các giá trị trung vị C
max và AUC
(0-24) ở trạng thái ổn định sau khi dùng 200mg pazopanib một lần mỗi ngày ở bệnh nhân suy gan nặng là khoảng 18% và 15% các giá trị trung vị tương ứng sau khi dùng 800mg một lần mỗi ngày ở bệnh nhân có chức năng gan bình thường. Dựa trên sự giảm mức phơi nhiễm và dự trữ gan hạn chế, không khuyến cáo pazopanib cho các bệnh nhân suy gan nặng (được định nghĩa là bilirubin toàn phần >3 lần ULN bất kể các giá trị ALT) (xem mục
Liều lượng và Cách dùng).
- xem Bảng 1.
Các nghiên cứu lâm sàng
Ung thư biểu mô tế bào thận (RCC)
Tính an toàn và hiệu lực của VOTRIENT trên các bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào thận (RCC) đã được đánh giá trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, có đối chứng với giả dược. Các bệnh nhân (N = 435) mắc RCC tiến triển tại chỗ và/hoặc di căn được phân ngẫu nhiên để sử dụng VOTRIENT 800mg một lần mỗi ngày hoặc giả dược. Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá và so sánh hai nhóm điều trị về thời gian sống còn không tiến triển bệnh (PFS) và tiêu chí đánh giá phụ chủ yếu là sống còn toàn bộ (OS). Các mục tiêu khác là đánh giá tỉ lệ đáp ứng toàn bộ và thời gian đáp ứng.
Từ tổng số 435 bệnh nhân trong nghiên cứu này, 233 bệnh nhân chưa từng được điều trị và 202 bệnh nhân được điều trị bước hai, những bệnh nhân này đã được sử dụng phác đồ dựa trên IL-2 hoặc INFα trước đó. Thể trạng của bệnh nhân (ECOG) tương tự nhau giữa nhóm VOTRIENT và nhóm giả dược (ECOG 0: 42% so với 41%, ECOG 1: 58% so với 59%). Tất cả các bệnh nhân có kết quả mô học là tế bào sáng hoặc chủ yếu là tế bào sáng. Khoảng một nửa số bệnh nhân có di căn ở 3 cơ quan hoặc nhiều hơn và phần lớn có di căn phổi (74%), và/hoặc hạch bạch huyết (54%) khi bắt đầu nghiên cứu.
Các tỉ lệ về số bệnh nhân chưa từng được điều trị và số bệnh nhân được điều trị trước đó với cytokine trong mỗi nhóm là tương tự nhau (53% và 47% trong nhóm VOTRIENT, 54% và 46% trong nhóm giả dược). Trong phân nhóm bệnh nhân đã được điều trị trước đó với cytokine, phần lớn (75%) là sử dụng phác đồ dựa trên interferon.
Các tỉ lệ là tương tự trong mỗi nhóm về số bệnh nhân trước đó đã được phẫu thuật cắt bỏ thận (89% trong nhóm VOTRIENT và 88% trong nhóm giả dược) và/hoặc trước đó đã được xạ trị (22% trong nhóm VOTRIENT và 15% trong nhóm giả dược).
Phân tích ban đầu về tiêu chí nghiên cứu chính PFS được dựa trên việc đánh giá bệnh tật thông qua Nhóm xem xét xạ trị độc lập trên toàn bộ quần thể nghiên cứu (cả ở các bệnh nhân điều trị bước 1 và bước 2).
- xem Bảng 2.

Đối với các bệnh nhân đã đáp ứng với điều trị, trung vị của thời gian đáp ứng là 58,7 tuần theo đánh giá độc lập. Dữ liệu trung vị sống còn toàn bộ (OS) ở đề cương có xác định phân tích sống còn cuối cùng là 22,9 tháng và 20,5 tháng [HR=0,91 (95% CI: 0,71; 1,16; p = 0,224)] tương ứng đối với bệnh nhân được phân ngẫu nhiên trong nhóm VOTRIENT và nhóm giả dược. Các kết quả OS có xu hướng thiên lệch vì 54% bệnh nhân trong nhóm giả dược cũng dùng VOTRIENT trong phần nghiên cứu mở rộng sau khi bệnh tiến triển. Có 66% bệnh nhân nhóm giả dược nhận trị liệu sau nghiên cứu so với 30% bệnh nhân nhóm VOTRIENT.
Trong một nghiên cứu then chốt, các đánh giá về Chất lượng cuộc sống (QoL) được dựa trên thang điểm tự báo cáo làm mù từ hai bảng câu hỏi được thiết kế phù hợp theo đề cương nghiên cứu, EORTC QLQ-C30 và EuroQoL EQ-5D. Phân tích được dựa trên những bệnh nhân tiếp tục được điều trị trong cả 2 nhóm, trước khi có tiến triển bệnh. Các đánh giá đã cho thấy không có sự khác biệt giữa nhóm được điều trị với VOTRIENT hoặc nhóm giả dược (p>0,05), điều này chỉ ra rằng không có ảnh hưởng tiêu cực của VOTRIENT trên Chất lượng cuộc sống.
Trong một nghiên cứu Pha 2 trên 225 bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào thận tế bào sáng tái phát tại chỗ hoặc di căn, tỉ lệ đáp ứng là 35% và trung vị thời gian đáp ứng là 68 tuần theo đánh giá độc lập.
Tính an toàn, hiệu quả và chất lượng cuộc sống của VOTRIENT so với sunitinib đã được đánh giá trong một nghiên cứu không thua kém pha III ngẫu nhiên, nhãn mở, nhóm song song (VEG108844).
Trong nghiên cứu VEG108844, các bệnh nhân (N = 1110) ung thư biểu mô tế bào thận (RCC) tiến triển tại chỗ và/hoặc di căn đã không dùng liệu pháp toàn thân trước đó, được cho dùng ngẫu nhiên VOTRIENT 800mg một lần mỗi ngày liên tục hoặc sunitinib 50mg một lần mỗi ngày theo chu kỳ 6 tuần trong đó 4 tuần điều trị theo sau 2 tuần không điều trị.
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là để đánh giá và so sánh PFS ở bệnh nhân được điều trị với VOTRIENT với bệnh nhân được điều trị với sunitinib. Đặc điểm nhân khẩu học là tương tự giữa hai nhóm điều trị. Đặc điểm bệnh tại thời điểm chẩn đoán ban đầu và khi sàng lọc là cân bằng giữa hai nhóm điều trị với phần lớn bệnh nhân có mô học là tế bào sáng và bệnh ở giai đoạn IV.
Nghiên cứu VEG108844 đã đạt tiêu chí chính của nó về PFS và cho thấy VOTRIENT không thua kém so với sunitinib, do giới hạn trên của 95% CI đối với tỉ số rủi ro là thấp hơn giới hạn không thua kém xác định theo đề cương là 1,25. Các kết quả về hiệu quả toàn bộ được tổng kết trong Bảng 3.
- xem Bảng 3.
Ung thư phần mềm (STS)
Hiệu quả và an toàn của VOTRIENT trên STS đã được đánh giá trong một thử nghiệm then chốt pha III ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, có đối chứng với giả dược (VEG110727). Tổng số 369 bệnh nhân ung thư phần mềm tiến triển đã được cho dùng ngẫu nhiên VOTRIENT 800mg một lần mỗi ngày hoặc giả dược. Điều quan trọng là, chỉ những bệnh nhân mắc một số phân nhóm mô học chọn lọc của ung thư phần mềm được phép tham gia vào nghiên cứu, do đó hiệu quả và tính an toàn của VOTRIENT chỉ coi như được thiết lập cho các bệnh nhân mắc các phân nhóm ung thư phần mềm này và điều trị với VOTRIENT nên hạn chế cho các phân nhóm STS này mà thôi.
Các loại khối u dưới đây được chọn vào nghiên cứu:
Nguyên bào sợi (sacôm sợi ở người lớn, sacôm sợi nhầy, sacôm sợi dạng biểu mô xơ cứng (sclerosing epithelioid fibrosarcoma), các khối u sợi đơn độc ác tính (malignant solitary fibrous tumours)), các khối u được gọi chung là u mô bào sợi (u mô bào sợi ác tính đa hình thái [MFH], MFH tế bào khổng lồ, MFH dạng viêm), sacôm cơ trơn, các khối u cuộn mạch ác tính, cơ xương (sacôm cơ vân dạng phế nang và đa hình thái), mạch (u nội mô mạch máu dạng biểu mô, sacôm mạch máu), các loại chưa xác định rõ sự biệt hóa (hoạt dịch, dạng biểu mô, phần mềm dạng phế nang, tế bào sáng, tế bào tròn nhỏ xơ hóa, u dạng cơ vân ngoài thận, u trung mô ác tính, PEComa, sacôm nội mạc mạch máu) ngoại trừ sacôm sụn, các khối u Ewing/các khối u ngoại bì thần kinh nguyên thủy (PNET), các khối u vỏ bao thần kinh ngoại biên ác tính, các sacôm mô mềm không biệt hóa chưa được phân loại (NOS) và các loại sacôm khác (không có trong danh sách các khối u không được lựa chọn vào nghiên cứu).
Các loại khối u dưới đây không được chọn vào nghiên cứu:
Sacôm mô mỡ (tất cả các phân nhóm), tất cả các sacôm cơ vân không phải dạng phế nang hoặc đa hình thái, sacôm sụn, sacôm xương, các khối u Ewing/PNET, GIST, sacôm sợi bì dạng củ, sacôm sợi cơ dạng viêm, u trung mô ác tính và các khối u trung bì hỗn hợp của tử cung.
Ghi chú, những bệnh nhân bị sacôm mô mỡ đã được loại trừ khỏi nghiên cứu then chốt pha III do trong nghiên cứu pha II mở đầu (VEG20002), tác động (PFS ở tuần 12) của VOTRIENT ở tế bào mô mỡ không đáp ứng các điều kiện tiên quyết để được thử nghiệm lâm sàng tiếp theo.
Các tiêu chí lựa chọn chính khác của nghiên cứu VEG110727 là có bằng chứng mô học của STS ác tính cấp độ trung bình hoặc cao và có tiến triển bệnh trong vòng 6 tháng khi điều trị di căn, hoặc tái phát trong vòng 12 tháng sau điều trị tân bổ trợ.
98% các đối tượng đã dùng doxorubicin trước đó, 70% đã dùng ifosfamide trước đó và 65% các đối tượng trước đó đã dùng từ 3 loại thuốc hóa trị trở lên được tham gia vào nghiên cứu.
Bệnh nhân được phân tầng theo các yếu tố đánh giá thể trạng của WHO (WHO PS) (0 hoặc 1) trước khi bắt đầu điều trị và theo số bước trị liệu toàn thân trước đó để điều trị bệnh tiến triển (0 hoặc 1 so với 2+). Trong mỗi nhóm điều trị, phần trăm đối tượng dùng liệu pháp toàn thân trước đó để điều trị bệnh tiến triển ở bước 2+ (58% đối với nhóm giả dược và 55% đối với nhóm VOTRIENT) hơi cao hơn một chút so với nhóm dùng liệu pháp toàn thân trước đó ở bước 0 hoặc 1 (42% với nhóm giả dược và 45% với nhóm VOTRIENT). Trung vị khoảng thời gian theo dõi các đối tượng (được xác định từ ngày chia ngẫu nhiên đến ngày liên lạc cuối cùng hoặc tử vong) là tương tự cho cả hai nhóm điều trị (9,36 tháng ở nhóm giả dược [khoảng 0,69 đến 23,0 tháng] và 10,04 tháng ở nhóm VOTRIENT [khoảng 0,2 đến 24,3 tháng]).
Mục tiêu chính của thử nghiệm là thời gian sống còn không tiến triển bệnh (PFS đánh giá bởi nhóm xem xét xạ trị độc lập), các tiêu chí phụ bao gồm thời gian sống còn toàn bộ (OS), tỉ lệ đáp ứng toàn bộ và thời gian đáp ứng.
- xem Bảng 4.

Cũng quan sát thấy sự cải thiện tương tự về PFS dựa trên đánh giá của nghiên cứu viên ở nhóm VOTRIENT so với nhóm giả dược (trên toàn bộ dân số dự định điều trị HR: 0,39, 95% CI, 0,30 đến 0,52, p < 0,001).
Không quan sát thấy khác biệt đáng kể về OS giữa 2 nhóm điều trị trong lần phân tích cuối cùng về OS thực hiện sau khi 76% (280/369) các biến cố đã xảy ra (HR 0,87, 95% CI 0,67, 1,12 p = 0,256).